Sự sống còn của một cộng đoàn chủ yếu phụ thuộc và hai yếu tố sau: Thứ nhất, phụ thuộc vào mỗi cá nhân trong cộng đoàn có cùng mục đích hay không? Thứ hai, phụ thuộc vào mức độ sâu xa mà họ chia sẻ mục đích ấy. Đây chính là chất liệu tạo nên sự liên kết của cộng đoàn, kết dính họ lại với nhau. Theo lẽ tự nhiên, con người tìm đến những tập thể có cùng mục đích. Khi những mục đích được chia sẻ cách sâu xa, thì con người sẽ vẫn còn liên kết với nhau; ngược lại sẽ tan rã.

Sự băng hoại của các cộng đoàn hiện tại:

Hiện nay thế giới đang chứng kiến sự tan rã của nhiều tập thể, nhiều cộng đoàn mà vốn được xem là liên kết với nhau chặt chẽ. Ví dụ hôn nhân gia đình ta vỡ, các đảng phái chính trị chia rẽ; và thậm chí trong Giáo Hội vốn nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất thì, có những Giáo Hội địa phương đang đòi hỏi quyền tự trị nhiều hơn.

Khuynh hướng cá nhân của con người thời đại này, đã thúc họ tìm kiếm sự thỏa mãn cho những mục đích riêng tư của mình. Họ sẽ không bằng lòng ở lại trong một tập thể khi sự thỏa mãn ấy xem ra không còn khả năng đạt được. Trong quá khứ, con người thường ở lại trong tập thể, ngay khi sự thỏa mãn cho những mục đích cá nhân không hề tìm thấy; và cả khi có những lựa chọn khác đang có sẵn, đang hấp dẫn họ. Bởi trong quá khứ, sức ép của xã hội, biện pháp chế tài của tôn giáo, hoặc thiếu sự chọn lựa đã giữ con người ở lại với nhau cách hữu hiệu hơn ngày nay.

Nhu cầu của con người là cộng đoàn:

Trong tất cả các vấn đề, thì việc đụng chạm đến nhu cầu sâu xa nhất của con người, được xem là vấn đề thiết thực nhất. Nhu cầu sâu xa của một con người là để yêu thương và được yêu thương, để hiểu biết và được hiểu biết. Do đó khi có một thành viên muốn rời khỏi cộng đoàn (tập thể), là khi cộng đoàn ấy không thể đáp ứng nhu cầu này. Trong một số trường hợp, người ấy không thể ra đi vì sợ hãi. Vì không có khả năng để thích nghi với những hoàn cảnh mới, hay có lỗi lầm nào đó; nhưng trong thâm tâm họ rất muốn rời khỏi cộng đoàn. Người ấy bị một mãnh lực lôi kéo đến những nơi mà họ cảm thấy có thể được yêu thương, có thể được hiểu biết và thông cảm.

Tình yêu trong cộng đoàn:

Con người là hình ảnh của vị Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì lẽ đó, tình yêu chính là nhu cầu cao quý mà Thiên Chúa đã đặt để trong mỗi người. Trong chính nhu cầu này, Thiên Chúa xây dựng dân của Người thành một cộng đoàn. Vì vậy, một cộng đoàn Ki-tô hữu đích thực không phụ thuộc vào một dự án chung, hay vào sự gần gũi về thể lý của các thành viên; nhưng là, được xây dựng và nuôi dưỡng bằng chính tình yêu của Thiên Chúa trong trái tim mỗi người. Giới luật Chúa Giê-su đưa ra cho thấy tầm quan trọng của tình yêu trong cộng đoàn: “ Thầy ban cho các con một điều răn mới; là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con, vậy các con hãy yêu thương nhau.” (Ga 13, 34).

Tuy nhiên chúng ta nên nhớ rằng, chính tình yêu của Đức Ki-tô trong và qua chúng ta, để giúp chúng ta có khả năng yêu thương với tinh thần siêu nhiên: “Tình yêu của Thiên  Chúa đã đổ tràn tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta.”(Rm 5, 5). Thánh Phao-lô còn nhấn mạnh hơn, khi nói: “Nguyện xin Thiên Chúa làm cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy.” (1Tx 3, 12).

Trong tình yêu của Chúa Giê-su, chúng ta học cung cách khiêm tốn nhằm phục vụ nhau: “Nếu thầy là thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, các con cũng phải rửa chân cho nhau.”(Ga 13, 14-15). Điều này mời gọi mỗi người tiếp nối việc rửa chân trong cộng đoàn mình đang sống bằng sự quan tâm đầy lòng mến.

Sự quan tâm chân thực:

Thiên Chúa không bằng lòng với chúng ta khi hành xử với nhau bằng một tình yêu hình thức hay xã giao. Người chờ đợi chúng ta có thái độ quan tâm trong chính trái tim chân thành của mỗi người. Thánh Phê-rô nhắc nhở, tình yêu này chỉ được trọn vẹn khi mỗi người vâng phục chân lý Lời Chúa: “Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã được thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi.”(1Pr 1,22-23). Thánh Phao-lô đã diễn tả bản chất sâu xa của tình yêu này: “Lòng bác ái của anh em không được giả hình. Hãy chân thành yêu thích điều lành và chê ghét điều dữ, anh em hãy yêu mến nhau trọn tâm hồn.... tôn trọng sâu xa đối với nhau.”(Rm 12, 9-10)

Bản chất của cộng đoàn không chỉ là : lời tuyên xưng cùng một đức tin, cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng làm chung công việc, cùng cầu nguyện chung, ăn chung...tình yêu không phát xuất từ việc thực hành những nhân đức khác của cộng đoàn; nhưng hơn thế nữa, tất cả đều phải xuất từ tình yêu chân thành. Để rõ điều này hơn, chúng ta hãy đọc qua ‘ bài ca đức ái’ (x 1Cr 12, 31-13, 1-8a.13). Và một tình yêu viên mãn như Chúa Giê-su đã nói: “Con đã yêu chúng như Cha đã yêu con.”(Ga 17,23)

Vài gợi ý:

1/ Bạn nghĩ thế nào về hôm nay, có những anh chị em đang tìm cách rời khỏi cộng đoàn ?

2/ Bạn cảm thấy thế nào về những người đang kinh nghiệm sự cô độc trong cộng đoàn đời tu ?

3/ Bạn có cảm thấy không muốn gặp gỡ cộng đoàn trong một vài lần nào đó, và bằng cách nào ?

Lm Paul.

Trước hết cần xác định: không có một cộng đoàn nào là hoàn hảo theo đúng nghĩa của từ hoàn hảo cả. Thực tế của một cộng đoàn hoàn hảo là hướng về, để mỗi thành viên cùng chung tay xây dựng, nhằm tạo nên một cộng đoàn hoàn hảo mang lại bình an và thiện hảo cho các thành viên.

Chúng ta thấy có rất nhiều mô hình về đời sống cộng đoàn. Tuy nhiên, mô hình của đời sống thánh hiến có hai chiều kích, mà các tập thể xã hội khác thiếu vắng, đó là: tình yêu và sự tin tưởng. Hai yếu tố này chính là nền tảng cho sự giao tiếp ở mức độ sâu xa; và làm cho một cơ chế điều hành mang tính chất Ki-tô giáo, và khác xa mọi mô hình của các cộng đoàn khác. Trong cộng đoàn này, mỗi người cần: quan tâm, chia sẻ, chịu đựng, phục tùng lẫn nhau và phục vụ Nước Trời trong chính họ và trong thế giới. Qua lăng kính và ngôn ngữ nhân loại, ta thấy Cộng Đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa, đã thực sự nên ‘Một’ trong cộng đoàn luôn quan tâm đến nhau, chia sẻ cho nhau, san sẻ gánh nặng của nhau, và tùng phục lẫn nhau vì tình yêu. Đó cũng chính là phục vụ thế giới.

Quan tâm:

Sự quan tâm và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa thì vô hạn. Chúa Giê-su đã nói về tình yêu của Cha Ngài: “Cha đã yêu con trước khi tạo thành vũ trụ.”(Ga 17, 24); và ngược lại: “Để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha.”(Ga 14, 31). Đây chính là lý do tại sao Chúa Giê-su thốt lên rằng: Chúa Cha và Chúa Con đã ‘biết’ nhau cách hoàn hảo. Lưu ý từ ‘Biết’ trong Kinh Thánh có nghĩa là một sự hiểu biết, một kiến thức của con tim, một trái tim thực sự yêu thương và phát xuất bởi sự tự mặc khải đầy tin tưởng hai chiều. Đây chính là yếu tố cần thiết đầu tiên cho cộng đoàn Ki-tô hữu.

 

Chia sẻ:

Sự quan tâm vô hạn sẽ đưa đến việc chia sẻ hoàn toàn cho nhau. Chúa Giê-su đã cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Con Cha, để Con Cha có thể tôn vinh Cha.” (Ga 17, 1). Ngài khẳng định với chúng ta về sự chia sẻ hoàn toàn này: “Tất cả những gì Con có là của Cha, và tất cả những gì Cha có là của Con.” (Ga 17, 10) Một khi chúng ta có thể nói lên được những lời như thế thì, có lẽ chúng ta đã đạt được ở một mức độ khá hoàn hảo trong đời sống cộng đoàn rồi. Đó chính là thước đo chính xác và có giá trị về phẩm chất của sự quan tâm.

Chịu đựng:

Theo cách con người, chúng ta không thể nói cộng đoàn Ba Ngôi chịu đựng lẫn nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su đã mang lấy gánh nặng của Chúa Cha, bằng việc tự gánh lấy mọi tội lỗi và đau khổ của nhân loại, để cứu chuộc họ. Chúa Giê-su đã chia sẻ: “ Sở dĩ Chúa Cha đã yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống tôi, không ai lấy đi được; nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình, đó chính là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”(Ga 10, 17-18).

Đối lại với sự hiến dâng của Chúa Giê-su, Chúa Cha đã cất Người khỏi gánh nặng của sự chết: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt tên muôn ngàn danh hiệu, vì thế, khi nghe danh Thánh Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giê-su Ki-tô là Chúa’.” (Pl 2, 9-11). Vì thế, việc san sẻ gánh nặng cho nhau là yếu tố cần thiết của đời sống cộng đoàn.

Phục tùng:

Chúa Giê-su đã tùng phục thánh ý Cha trong sự tự do hoàn toàn: “Tôi vẫn giữ lệnh truyền của Cha và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10). Tương tự, Chúa Cha luôn lắng nghe những lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, như Ngài đã thân thưa: “Lạy Cha, Con biết rằng Cha luôn lắng nghe lời con.”(Ga 11, 12).

Phục tùng nhau trong tình yêu là một chiều kích khác của một cộng đoàn Ki-tô hữu đích thực. Việc phục tùng thánh ý Thiên Chúa được khám phá qua cộng đoàn, và được thể hiện qua những người thủ lãnh, là biểu lộ duy nhất của sự tuân phục đối với người Ki-tô hữu trưởng thành.

Phục vụ:

Tất cả những gì mà một cộng đoàn làm, đều là phục vụ Giáo Hội và thế giới. Nhưng việc phục vụ này cần được làm theo khuôn mẫu của cộng đoàn Ba Ngôi đã trao ban cho nhân loại. Tình yêu vô biên và sự thánh thiện của Thiên Chúa được ban cho thế giới qua Đức Giê-su, và hiệu quả qua hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúa Giê-su cho biết: “Tôi đến để cho chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)

Từ nay, mỗi cộng đoàn Ki-tô hữu tồn tại là để phục vụ con người, nhằm trao ban cho họ một cuộc sống tốt đẹp và sung mãn, dù ở bất cứ hình thức nào thì đó cũng chính là sứ vụ tông đồ. Việc xây dựng một cộng đoàn trở nên hoàn hảo, khi mỗi thành viên chấp nhận chân lý Chúa Giê-su nêu ra: “Tôi ở trong Cha và Cha ở trong tôi.” (Ga 14, 10). Khi ấy kinh nghiệm về sự biến đổi của cộng đoàn mới có thể bắt đầu trong cuộc đời tôi. Chúng ta sẽ tìm hiểu cách chi tiết hơn về năm phương thế ở các bài kế tiếp sau đây.

Vài gợi ý:

1/ Hy vọng sâu xa nhất của bạn là gì nơi cộng đoàn bạn đang sống ?

2/ Bạn cảm thấy có nhu cầu về đời sống cộng đoàn không? Theo cách nào ?

3/ Có lúc nào trong cuộc đời bạn đã kinh nghiệm sâu xa về đời sông chung cộng đoàn ?

Lm Paul

 

1/ Tôi cần người khác:

Tôi không thể học biết yêu thương khi tôi tách rời mọi người; và tôi cũng không thể thành người nếu tôi không có đời sống cộng đoàn.(x.St 2, 18). Nếu không có ai đó, thường là cha mẹ giúp tôi sử dụng ân ban tự do của Thiên Chúa để yêu thương, tôi sẽ không thể trở thành người Ki-tô hữu hôm nay. Nhờ việc sử dụng chính sự tự do để yêu thương tôi, cha mẹ và những người khác đã dạy tôi biết nhận ra sự tự do để yêu thương. Nếu không có một ai đó đã yêu thương tôi, có thể tôi sẽ không bao giờ được lớn lên và trưởng thành như một con người thật sự. Đó là lý do tại sao “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.” (1Ga 4, 19); và chỉ khi đó, Người mới mời gọi chúng ta đáp trả tình yêu ấy. Bây giờ chúng ta đã trở thành con người như hiện nay, là nhờ vào tình thương và ngay cả sự lãnh đạm của biết bao người, đã trải qua trong cuộc đời mình. Càng lãnh nhận tình thương, chúng ta càng tự do để yêu thương chính mình và người khác, và làm cho đời ta phong phú hơn. Một khi không được yêu thương, ta có khuynh hướng co cụm, thậm chí không còn yêu cả bản thân mình.

Chính sự cần thiết của yêu thương mà tôi cần có đời sống cộng đoàn. Nếu không có ai cho tôi tiếp cận nhân vị tính của họ thì, sự tự do để yêu thương trở nên vô nghĩa, và tôi không thể lớn lên trong nhân vị tính của mình. Trong tình yêu liên vị này mà thánh Phao-lô đã tâm sự với dân thành Thesalonica: “Thưa anh em, chúng tôi phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng tôi ao ước điều đó. Vì thế, chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để đến thăm anh em.” (1Tx 2, 17-18). Và ngài đã nhấn mạnh đến sự cần thiết trong tương quan cộng đoàn: “Chúng ta liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể.” (Rm 12, 5).

2/ Người khác cần tôi:

Người khác cũng cần có tôi. Vì không có tôi và sự thiếu vắng tình yêu của tôi, mỗi người trong họ sẽ thấy giảm thiểu đi sự đáng yêu và sự tự do để yêu thương. Khi tôi yêu người khác là lúc tôi làm cho họ có khả năng để biểu lộ và lớn lên trong chính sự tự do để yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Ngược lại, khi tôi từ chối yêu thương, là lúc tôi vô hiệu hóa sự phát triển về nhân vị tính và sự tự do để yêu thương của họ.

Khi tôi đón nhận tình yêu của người khác, chính là lúc tôi giúp đỡ họ lớn lên như một con người và là một Ki-tô hữu thực sự. Và khi tôi từ chối tình yêu của người nào, là tôi đã cô lập họ, cắt đứt mối tương quan cộng đoàn của họ, và làm cho họ không thể phát triển đầy đủ nhân vị tính. Thánh Phao-lô chia sẻ: “Như tôi đã từng nói: anh em hằng ở trong lòng chúng tôi, sống chết chúng ta cần có nhau.”(2Cr 7, 3).

Để phát triển nhân vị, sự tự do để yêu thương của tôi, tôi phải sống trong một cộng đoàn thực sự, với những người cùng lý tưởng, đồng nghiệp nam hay nữ với tôi. Thực tại cộng đoàn không phải là cái gì chúng ta không thể làm được, cũng không phải là đặc quyền – đặc lợi cho một nhóm ưu tuyển nào đó; nhưng nó chính là hơi thở của đời sống và là lương thực để phát triển đối với mỗi người chúng ta.

3/ Kinh nghiệm về Thiên Chúa:

Chúng ta cần có kinh nghiệm về mối liên đới với người khác, để có được kinh nghiệm về Thiên Chúa. Cha Karl Rahner đã nói: “Không có kinh nghiệm về Thiên Chúa thì có thể đã không có khả năng suy tư nhờ vào kinh nghiệm về thế giới...Những gì suy tư, kinh nghiệm về Thiên Chúa chính là mối tương quan giữa con người với nhau. Điều này có nghĩa là mối tương quan của một người  đối với những người khác, phải là một sự tin tưởng vô điều kiện và khách quan, là một sự sẵn sàng tín nhiệm những người chung quanh, để chấp nhận trách nhiệm đối với họ. Nói cách khác, nó phải trở thành một mối quan hệ của tình yêu. Chỉ từ nền tảng này, mới có thể nắm bắt cách có hiệu quả những gì Thiên Chúa muốn nói, và chỉ có thể là người tuân giữ Lời Chúa dạy khi người ấy bắt đầu yêu mến Thiên Chúa.”. Điều này thánh Gioan tông đồ đã nói: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng họ không trông thấy.”(1 Ga 4, 20).

Vậy với tư cách là một con người, cộng đoàn không chỉ là sự sống còn về phương diện tâm lý; nhưng chắc chắn đối với chúng ta, đó còn là chính sự sung mãn của đời sống tâm linh, cũng như của đời sống Ki-tô hữu. Nếu tôi không chấp nhận và tín nhiệm cộng đoàn, những anh chị em đang sống với tôi, thì tôi không thể nào có kinh nghiệm về Thiên Chúa.

4/ Tôi là một cá thể độc đáo:

Sự hiện hữu của mỗi người là duy nhất trong tình yêu tác tạo của Thiên Chúa. Bởi vậy chỉ có tôi mới đóng góp phần của mình cho cộng đoàn, và không ai làm thay cho tôi được. Thiên Chúa dựng nên mỗi người khác biệt nhau, có sự độc đáo riêng để mỗi người cần và phụ thuộc lẫn nhau. Thánh Phao-lô cho biết: “Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận thì làm sao trở thành thân thể được? Như thế, tuy có nhiều bộ phận nhưng chỉ là một thân thể. Vậy mắt không thể nói với bàn tay: ‘tôi không cần đến bạn’...Như thế, không có sự chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cũng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cùng vui chung.”(1Cr 12, 19-21.25-26).

4/ Hiện hữu cho người khác:

Để trở thành người, tôi cần hiện diện với và còn cho người khác. Như vậy ý nghĩa của hiện hữu của tôi là để cho; và người khác cũng thế với tôi. Như vậy cộng đoàn nghĩa là có sự tin tưởng vào trách nhiệm cá nhân, để đi vào quan hệ tình yêu với những người khác, nhằm giúp mỗi người phát triển nhân vị của mình. Điều này có nghĩa là bảo tôi chống lại sự co cụm trên chính mình, chống lại mọi ước muốn xây dựng cái tôi của mình, không nghĩ đến yêu thương và muốn sử dụng người khác như công cụ.

Chỉ trong cộng đoàn, tôi mới có thể tự do để yêu thương người khác; là nơi tôi trao ban và lãnh nhận ân huệ thành nhân. Thánh Phao-lô cho biết: “Nếu chúng ta sống trong sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được cấu kết chặt chẽ, dầu mỗi phần đều riêng rẽ nhưng hoạt động theo chức năng của mình. Vì thế, thân thể được lớn lên và được xây dựng vững mạnh trong tình yêu.”     (Ep 4, 15-16).

5/ Đón nhận và biểu lộ nhu cầu của chúng ta:

Có lẽ chúng ta khó lòng bày tỏ nhu cầu tình cảm của mình cho người khác, cho cộng đoàn. Thậm chí chúng ta cũng có thể không chấp nhận nhu cầu sâu xa này trong chính bản thân mình. Thánh Phao-lô là người có tinh thần vững mạnh, ngài đã sẵng lòng đón nhận và bày tỏ nhu cầu của mình cho người khác. Chúng ta hãy đọc một vài tâm sự của ngài:

“Tôi viết cho anh em...để anh em biết rằng tôi hết lòng yêu mến anh em.”(2Cr 2,4); “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ đến anh em.”(Pl 4, 1); “Nếu Thiên Chúa muốn, tôi sẽ vui mừng đến với anh em và được nghỉ ngơi giữa anh em.”(Rm 15, 32); “Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ao ước gặp lại anh để được chan chứa niềm vui.” (2Tm 1, 4).

Khi tôi có kinh nghiệm và diễn tả tình yêu của tôi đối với anh chị em trong cộng đoàn, khi tôi cảm thấy rằng tôi thuộc về người khác và họ cũng thuộc về tôi; lúc ấy, tôi trở thành một con người, một sự tự do để yêu thương.

Vài gợi ý:

1/ Bằng cách nào bạn cảm thấy được nhu cầu của những người khác nhiều nhất ?

2/ Bạn đã có kinh nghiệm gì về đời sống cộng đoàn Ki-tô hữu, trước khi gia nhập cộng đoàn hiện tại ?

3/ Bạn có thể nhớ lại, một cơ hội khi bạn muốn giúp đỡ người khác, nhưng họ có ý nói: “Tôi không cần đến ban ?”.

Xin cho biết cảm nhận của bạn khi ấy thế nào ?

Lm.Paul 

Lời mời gọi của Thiên Chúa đến với chúng ta với tư cách là một dân tộc, một cộng đoàn. Ngoài việc phụng tự, cầu nguyện thì đời sống cộng đoàn được diễn tả qua lời đáp trả chân thành với Giao Ước đó: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12). Điều này mời gọi mỗi thành viên trong cộng đoàn diễn tả trong thái độ cử xử với nhau như thế nào, sao cho thích hợp. Vì là một cộng đoàn, nên có những nguyên tắc được vạch ra, đó là những biểu hiện của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với nhau. Chúng ta có thể ứng dụng nguyên tắc của thánh Phao-lô, nói với dân thành Corintho, về những buổi họp của họ: “Hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự.” (1Cr 14, 10).

Với lý do trên đây, chúng ta xét đến sự cần thiết và bản chất của những nguyên tắc trong một cộng đoàn. Những nguyên tắc là những điều đã được qui định và được cộng đoàn chấp thuận được viết thành văn, được nói và được mọi người chấp thuận. Nhờ những nguyên tắc này, chúng ta mới lựa chọn đời sống chung, và giúp gặt hái được những hoa trái của đời sống tâm linh và huynh đệ (tỉ muội). Những nguyên tắc này có thể là những qui định, lịch sinh hoạt...đã được cộng đoàn thống nhất.

1.Sự cần thiết:

     Vài nguyên tắc rõ ràng sẽ giúp cho cộng đoàn thoải mái hơn, vì nhờ đó họ có khả năng đoán biết trước cách hợp lý những vấn đề, để không cần đưa ra những quyết định mới mỗi ngày. Vế sau của của vấn đề này là nguyên nhân gây ra sự căng thẳng và sự lộn xộn liên chủ thể. Ví dụ như chúng ta cần có quyết định thống nhất với nhau giờ cử hành phụng vụ; hay, ấn định thời gian và tính chất của các buổi hội họp cộng đoàn, sẽ tránh đi nhiều phiền phức không đáng có. Và cả trong các sứ vụ cũng cần có những nguyên tắc được hướng dẫn cuộc sống trong trật tự.

2. Bậc thang giá trị:

Trước khi xác định rõ nguyên tắc, điều cần thiết là xác định bậc thang giá trị. Không có yếu tố này sẽ dẫn đến tình trạng lộn xộn trong chính cơ cấu chúng ta thiết lập để bảo tồn trật tự. Chúng ta hãy nhìn vào bậc thang giá trị của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi sắp xếp: “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện.” (Cv 2, 42). Và “chúng tôi không thể bỏ việc rao giảng Lời Chúa để lo việc ăn uống.” (Cv 6, 2). Qua trình thuật này, chúng ta thấy các thự tự: đức tin, sự quan tâm lẫn nhau, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện, trao ban Lời Chúa và sau cùng là công việc xã hội. Chúng ta cũng hết sức cẩn trọng xem xét kỹ  các bậc thang giá trị được thể hiện trong các nguyên tắc chúng ta vạch ra.

3. Đối với mỗi người:

Mỗi thành viên cần nhớ những mục đích trong tất cả các nguyên tắc. Bởi nhờ đó, tình yêu và niềm tin vào Nước Trời mới có thể phát triển trong tâm hồn những người sống trong cũng như ngoài cộng đoàn. “Mỗi ngươi trong chúng ta nên nghĩ về kẻ khác và giúp đỡ họ trở thành những Ki-tô hữu vững mạnh hơn.”(Rm 15, 2)

Gợi ý vài hành động được xem là rất hữu ích như là: dành thời gian để giúp đỡ thành viên khác, tôn trọng cuộc sống riêng tư, hoặc chăm sóc khi có anh chị bệnh tật...Tính chất quan trọng của các công việc này, có thể đòi hỏi mỗi người nhìn vào nguyên tắc chung để đừng có ai bị bỏ rơi, do quá quan tâm đến các việc tông đồ ngoài cộng đoàn. Bất cứ công việc nào làm suy giảm việc xây dựng cộng đoàn, cần được xem xét lại trong tâm tình khiêm tốn cầu nguyện.

4. Được khám phá:

Những nguyên tắc không là ngẫu nhiên hay bị áp đặt từ bên ngoài. Những nguyên tắc này phải được cộng đoàn hiện tại khám phá, thiết lập và gìn giữ những gì thuộc về truyền thống. Dẫu vậy, các nguyên tắc chỉ được thực hiện cách khôn ngoan, sau khi tìm kiếm sự khôn ngoan từ Thiên Chúa. “Xin Thiên Chúa cho anh em am tường thánh ý Người nhờ tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết Thần Khí ban cho. Như vậy anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện.”(Cl 1, 9.10). Nếu không có sự khôn ngoan của Thần Khí thì, các nguyên tắc chúng ta xây dựng chỉ là: “Những giới luật và giáo huấn của người phàm.” (Cl 2, 22).

5. Tính cách linh động:

Tất cả những nguyên tắc dù được viết ra, thì cũng lưu ý đến việc giải thích một cách linh hoạt của những con người tự do và có trách nhiệm. Bởi thực tế sẽ có những thành viên trong cộng đoàn lạm dụng, giải thích cách cứng ngắt các nguyên tắc, khiến những người có tinh thần trách nhiệm không thể trưởng thành được nhờ những quyết định cá nhân. Sách Công vụ cung cấp cho ta sự phân định khôn ngoan Thiên Chúa, nhằm thích ứng các nguyên tắc cách đa dạng: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này.”(Cv 15, 28).

Nên nhớ mỗi người hoàn toàn khác biệt và không ngừng lớn lên, vì thế nếu không quá sức chịu đựng thì, việc đưa ra những nguyên tắc thật chi tiết và thiếu linh hoạt là điều thiếu khôn ngoan, ngay cả những nguyên tắc này diễn tả giá trị ưu việt.

6. Có thể thay đổi:

Cần lưu ý là không thể nào có thể thiết lập những nguyên tắc có tính vĩnh viễn cả. Dù những giá trị Ki-tô giáo không thay đổi, thì con người và hoàn cảnh luôn thay đổi. Do đó không có một hình thức hiện hữu của cộng đoàn Ki-tô hữu nào mang tính hoàn hảo và trường tồn. Đây chính là lý do để mỗi cộng đoàn nên học biết cách chấp nhận rằng, bất kỳ một nguyên tắc nào, nếu thấy nó không còn hữu ích cho cộng đoàn để sống và diễn tả đời sống đức tin, đời sống bác ái và các hoạt động tông đồ khác; thì, đến lúc nào đó nó phải được loại bỏ. Dĩ nhiên trước khi loại bỏ, nó đã được chứng thực rằng không còn thích hợp cho những mục đích mà nguyên tắc đã đề ra. Và bất kỳ sự thay đổi nào cũng nên thực hiện như cộng đoàn Ki-tô tiên khởi đã quyết định: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí.” (Cv 5, 12).

7. Những nguyên tắc cho việc giao tiếp:

Sau những cuộc gặp gỡ cá nhân tốt đẹp trong niềm tin và yêu thương, thì môt vài nguyên tắc cho việc thông tin, sẽ rất cần thiết để có được cuộc sống hài hòa và làm việc chung với nhau. Nghĩa là mỗi thành viên phải biết được những điều gì sẽ xảy ra trong các vấn đề liên quan đến cộng đoàn, như: kế hoạch được thay đổi,, công việc tông đồ của mỗi người, tình trạng tài chánh cộng đoàn, thông tin từ cấp cao hơn hay của Giáo Hội, và những gì thuộc mối quan tâm đối với các thành viên. Tuy nhiên, sự bí mật riêng tư của cá nhân luôn luôn được tôn trọng, những vấn đề đó được xem là quyền bất khả xâm phạm. Nếu có sự phỏng đoán, tin vịt, lời đồn đại, hay những thông tin phát xuất từ bên ngoài cộng đoàn, thì tất cả cho thấy việc thông tin trong cộng đoàn đó còn thiếu sót.

Nguyên tắc lý tưởng cho việc thông tin là trong buổi họp cộng đoàn, khi các thành viên đều tham gia ý kiến trong quá trình đi đến quyết định, và người phụ trách cộng đoàn đưa ra quyết định cuối cùng và thông báo điều đó. Những người đảm nhận các trách vụ khác nhau trong cộng đoàn cũng có thể thông báo quyết định của họ tại buổi họp. Tốt nhất là dùng một bảng thông báo, để thông tin cho tất cả các thành viên biết về những thay đổi về một thông lệ nào đó của cộng đoàn, hay sự vắng mặt của một thành viên.

Vài gợi ý:

1/ Trong đời sống của bạn, điều gì được ưu tiên nhất? Những giá trị quan trọng nhất trong đời bạn là gì ?

2/ Bạn có nghĩ mình đang được đối xử như một người tự do, và một người trưởng thành có trách nhiệm trong cộng đoàn không?

Lm.Paul

 

Nếu nói cuộc đời của mỗi người là một hành trình thì, qua mỗi chặng hành trình đều ghi dấu những bước chân của người lữ hành. Trong đời tu cũng thế, người ta hay nói ơn gọi là bước theo chân Đức Giê-su Ki-tô. Có một bài hát nào đó đã diễn tả về một người bước đi trên cát, nhìn lại vết chân đã đi qua ngỡ đó là của mình, nhưng thực ra đó chính là của Chúa. Quả thực như vậy. Vì đời tu là vâng theo mệnh lệnh của Chúa Giê-su là: “Hãy theo Thầy !”. Nếu như tôi không bước đi theo mệnh lệnh này là tôi đã đi sai đường. Nếu như tôi cho rằng mình có khả năng để tự lập hoàn toàn bằng đôi chân mình mà, không cần ân sủng Chúa và không cần sự trợ giúp của bất kỳ ai, đó chỉ là ảo tưởng và đầy tự mãn kiêu căng. Chủ đề Năm Thánh của Giáo Hội hiện nay là: Bước đi trong hy vọng. Phải chăng đây cũng là một lời mời gọi để quý soeurs mừng kỷ niệm khấn Dòng, nhìn lại những chặng đường đã qua trong đời mình, có phải là những bước đi trong hy vọng hay không? Và hy vọng đó là gì đối với mình?

Nhìn vào thiệp mời dự lễ khấn lần đầu và mừng kỷ niệm của quý Sơ mừng: 25 – 50 – 60 – 70 năm khấn Dòng, của chị em Chúa Quan Phòng tôi thấy cả một chuỗi dài lịch sử. Có lịch sử mới bắt đầu được viết lên, có lịch sử đang ở đỉnh cao, có lịch sử của bóng chiều cuộc đời mình. Chắc chắn dịp mừng lễ này nơi mỗi chị em, nơi các ngoại đều dừng lại để nhìn những bước chân đã qua của đời mình, trong hành trình theo Chúa. Mỗi bước chân đi qua không đơn thuần là bước chân của sự đáp trả bằng ý chí và tự do của bản thân; nhưng còn là, một sự huyền nhiệm của tình yêu quan phòng mà Chúa đã gìn giữ. Vì vậy đây là khoảnh khắc để mỗi người nhìn lại quá khứ với tâm tình tri ân; và hướng về tương lai với tâm tình khiêm tốn phó thác.

Với năm chị em khấn lần đầu, thì đây cũng là thời điểm khởi đầu để chính thức viết lên trang sử đời tu của mình. Những tháng năm tìm hiểu, nhất là thời gian nhà tập là thời gian để quan sát, lắng nghe và cuối cùng là chọn lựa hành trình thực sự cho đời mình. Thay đổi từ tà áo dài trắng tinh khiết của tập sinh, để chuyển màu xanh sậm trở nên một tu sĩ thực thụ. Chị em sẽ tập dần bước đi trên đôi chân của mình, tập đón nhận trách nhiệm và còn nhiều điều khác chờ đợi, để qua đó giúp chị em mỗi ngày lớn lên trong tư cách là một tu sĩ. Chị em không bước đi trong đơn độc, mà là có chị em cùng đồng hành với mình. Nghĩa là từ nay, chị em học chấp nhận chết đi cho bản thân, để tận hiến cuộc đời cho Chúa qua việc phục vụ tha nhân. Chị em bước đi không phải chỉ nuôi hy vọng là vài năm sau sẽ khấn trọn đời. Đó chỉ là niềm hy vọng nhỏ và ngắn hạn để nối kết với rất nhiều hy vọng khác trong đời mình, hướng về một Hy Vọng vĩ đại hơn, có tính chung cục của cuộc đời mình.

Ngày khấn lần đầu tôi nghĩ chị em sẽ rất vui, vì trải qua một thời gian huấn luyện khá dài đối với một người trẻ, nay ước mơ đã thành hiện thực. Chị em hãy đón nhận niềm vui và hạnh phúc hiện tại, để có động lực tiếp tục dệt nên ước mơ khác cho đời mình trong tương lai. Có lẽ thời gian huấn luyện khởi đầu đã cho chị em trải nghiệm và kinh nghiệm khi đối diện với thử thách. Đây là điều tốt cho chị em, vì tương lai sẽ còn rất nhiều khó khăn đang chờ đợi, thì khó khăn của quá khứ sẽ giúp chị em trưởng thành hơn trong tương lai. Chị em cũng nên nhớ rằng, hôm nay chỉ là khấn lần đầu. Nghĩa là chị em vẫn còn trong thời gian huấn luyện khởi đầu, dù nay đã là tu sĩ thực thụ. Nhưng dẫu cho tương lai sắp tới có thế nào thì, chị em luôn nhắn nhủ với lòng mình là: lời xin vâng hôm nay là một lần cho suốt đời. Bởi rồi đây chị em sẽ gặp không ít khó khăn, thách đố lắm khi làm cho chị em chao đảo và muốn buông xuôi. Vì vậy hãy nuôi dưỡng mãi trong tâm trí sự xác quyết mạnh mẽ của lời xin vâng lần đầu khi tuyên khấn.

Thêm một điểm nữa chị em nên nhớ, hành trình đời mình là bước theo Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su đã nói rõ với chị em: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.”. Con đường Chúa Giê-su là đường tình yêu. Nhưng đường tình yêu của Chúa Giê-su dệt nên bằng mầu nhiệm tự hủy, bằng con đường cheo leo vác thập giá bước lên đồi Canve, rồi cuối cùng với thân xác bị chết nhục nhã trên thập giá và vùi trong nấm mồ. Đó cũng sẽ là những bước chân mà chị em sẽ bước đi trong hành trình của mình. Chúa Giê-su không trình bày cho chị em một lộ trình hứa hẹn đầy màu hồng tươi thắm. Thập giá là sự thật mà Chúa muốn mời gọi chị em tự do bước theo. Thập giá là con đường chị em bước theo để dệt hy vọng sự sống cho đời mình. Chính sự sống, ơn cứu độ mới là niềm hy vọng đích thực của hành trình mà chị em cần hướng tới. Tuy nhiên hôm nay chị em hãy cứ vui, vì đây là ngày trọng đại mang dấu ấn lịch sử đời tu của chị em. Không những thế, chị em tập sao cho có được khả năng sống vui mỗi ngày. Vì niềm hy vọng chị em mang trong mình sẽ không có chỗ cho sự dung hòa của đau buồn. Hay nói cách khác có vẻ mâu thuẫn, đau buồn là môi trường cho hy vọng phát triển

Bây giờ tôi muốn chia sẻ cùng với các chị em mừng hai mươi lăm năm khấn Dòng. Mừng 25 năm khấn, có lẽ chị em cũng đã bước sang cái tuổi đời 50. Cái tuổi mà Á đông chúng ta quan niệm là “Ngũ thập tri thiên mệnh.”, tuổi chín chắn để suy đoán để ngẫm mệnh trời. Với tuổi này, các soeurs đã tích lũy nhiều khinh nghiệm và sự khôn ngoan cả tuổi đời lẫn tuổi tu. Có thể nói đây là tuổi đỉnh cao của một đời người, vì biết minh định mọi vấn đề cách cân bằng giữa lý trí và cảm xúc. Trong thế giới đương đại mau thay đổi, các giá trị đều được xét lại, mọi cam kết mang tính bền vững dường như khó chấp nhận thì, việc sống trung tín 25 năm với đời tu thì đây cũng là điều đáng trân trọng. Vậy quý soeurs hãy vui mừng và hạnh phúc vì sự trung tín của mình.

Các Sơ mừng 25 năm khấn Dòng là vào cái tuổi của con người cẩn trọng trong mọi việc. Các Sơ không còn nhìn đời tu với con mắt đầy lý tưởng nhưng lại thiếu thực tế của thời tuổi trẻ. Nghĩa là không còn tràn đầy năng lượng nhiệt huyết nhưng thiếu suy xét và bồng bột của thời thanh xuân. Nhìn lại 25 năm qua, có lẽ các Sơ thấy rõ điều này trong các chặng hành trình của mình. Nhìn qua năm em khấn lần đầu hôm nay, các Sơ nhớ lại cái thuở ấy 25 năm trước, tâm trạng mình cũng gần như các em hôm nay vậy. Rồi sau khi khấn, được tiếp tục huấn luyện, hay lãnh nhận trách vụ nào đó cho đến lúc khấn trọn đời; các Sơ cũng trải qua không ít những kỷ niệm vui buồn, thất bại hay thành công, được chị em quý mến hay khó chịu...Mỗi gian đoạn, mỗi chặng hành trình đều mang theo những kỷ niệm của nó và làm nên cuộc đời của quý Sơ hôm nay. Đồng thời đó cũng là điểm dừng để chuẩn bị cho một hành trình sắp tới.

Mừng 25 năm như cột mốc đánh dấu mình đang ở vào thời điểm đỉnh cao của đời người. Có lẽ các Sơ cũng đang đảm nhận những trách vụ nào đó trong Tỉnh Dòng. Nhìn vào thế hệ các mẹ, các ngoại mừng 50 – 60 – 70 năm, các Sơ sẽ hướng về một tương lai gần như đang chờ đợi các Sơ. Nhìn vào các em khấn lần đầu, các Sơ sẽ thấy trách nhiệm đang chờ mình hoàn thành, rồi mai này sẽ trao lại cho thế hệ kế tiếp. Dòng chảy cuộc đời luôn là thế, không ai có khả năng để bám víu lấy mãi khoảnh khắc huy hoàng của đời mình cả. Hiện thời là giai đoạn đẹp trong hành trình đời tu của các Sơ. Bởi các Sơ đã có nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan được tích lũy từ chặng đường 25 năm qua. Các Sơ đã học được từ các mẹ, các ngoại để dần hình thành nên con người của quý soeurs hôm nay. Các Sơ đã lớn lên dần từ những yếu đuối, từ những bộp chộp của tuổi trẻ, từ những nghi kỵ hiểu lầm, từ những thất bại cay đắng, từ những thành công, cả từ những ảo tưởng về bản thân... và còn nhiều điều khác trong quá khứ đã giúp các Sơ  can đảm để đứng vững và lớn lên.

Xét theo lẽ thường thì tương lai của các Sơ vẫn còn dài, hành trình vẫn còn chờ đợi các Sơ tiến bước. Nhưng bước tiến của ngày mai sẽ không còn là những bước chân vồn vả của một thời tuổi trẻ. Các Sơ sẽ bước đi bằng những bước chân khoan thai đầy cẩn trọng, của một người từng trải qua nhiều cheo leo va vấp. Các Sơ  cũng sẽ tập biết buông bỏ những thứ hành trang gây nhiều vướng bận làm cản trở hành trình. Các Sơ  chỉ mong giữ lại trong hành trang của mình một trái tim rộng mở cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Bởi cuối cùng chỉ có mỗi trái tim nồng ấm biết yêu thương mới đưa đến chân trời hy vọng của niềm vui cứu độ. Phải chăng điều này sẽ là một thách đố mới cho chặng hành trình sắp đến của quý soeurs ? “Tri thiên mệnh” không phải đó là bến bờ cho một đời người tìm kiếm, là niềm hy vọng chung cục sao?

Cuối cùng con xin chia sẻ cảm nghĩ của mình về các mẹ và các Ngoại đáng kính. Con chỉ mới 35 năm khấn Dòng, nên chưa có kinh nghiệm về các chặng đường này. Nhưng hiện tại con đau bệnh và đang an dưỡng, nên điều này cũng cho con đôi chút cảm nghiệm của tuổi xế chiều. Với chuỗi hành trình dài của các mẹ và các ngoại đã đi, được minh chứng sống động bằng thời gian của năm khấn Dòng. Không rõ quá khứ đó như thế nào, chỉ tính đến thời gian khấn cũng đủ trân trọng và khâm phục lắm rồi. Con nghĩ với thời gian khấn Dòng dài như thế, các mẹ – các ngoại đủ tư cách để viết lên những trang sử cá nhân đời mình với niềm tự hào. Con chân thành chúc mừng và rất ngưỡng mộ đến các ngoại.

Con đã nói là, vì  mình chưa bước vài cái tuổi ‘cổ lai hy’, nên chưa thấu hiểu nỗi niềm thực sự của các ngoại được. Tuy nhiên khi nhìn lại bản thân đau yếu bệnh tật hiện tại, rồi nhìn ngắm các ngoại ngồi trên xe lăn khi tham dự thánh lễ, con thấy có chút gì đó của sự đồng cảm, đó là sự bất lực của thân thể do tuổi tác. Có lẽ trong thâm sâu các ngoại cũng có chút gì đó ngấm ngầm phản kháng lại sự bất lực này. Tại sao tôi lại như thế này ? Những năm trước đây, tôi vẫn còn mạnh khỏe, tôi vẫn còn hoạt động năng nổ, bước chân tôi vẫn còn vững chải, giọng nói tôi vẫn còn vang mạnh, uy tín của tôi được chị em tôn trọng..., sao bây giờ tôi lại như thế này ? Biết bao nhiêu lời tự chất vấn, như muốn phủ nhận cái thực tế của một thân thể đã dần suy tàn theo qui luật tự nhiên. Nhưng nếu có âm thầm phản kháng thực sự đi nữa, con nghĩ các ngoại vẫn nuôi dưỡng trong thâm sâu tâm hồn mình một niềm tin vững mạnh và hy vọng lớn lao nơi Thiên Chúa. Đối diện với sự bất lực do thân xác suy yếu, các ngoại càng thấy sự mỏng manh, và càng phó thác đời mình cho Chúa nhiều hơn. Bằng chứng là hiện tại các ngoại đang mừng kỷ niệm sự trung tín của mình dành cho Chúa và dành cho chị em.

Và rồi trong những giây phút hồi tưởng, các ngoại sẽ nhớ lại một thời trong dĩ vãng, một quá khứ huy hoàng đã qua. Quả thật như nhiều người hay nói: người trẻ hướng về tương lai, còn người già sống trong quá khứ. Bởi tương lai là điều gì đó mờ mịt với sắc màu ảm đạm của héo úa phai tàn. Một qui luật đào thải tự nhiên quá ư khắc nghiệt đối với thân phận của con người. “Chúa đã sinh ra con và cho con làm người”. Làm người là sự hiện hữu thuộc về thế giới vật chất và khả giác này. Một sự thuộc về quá lâu dần trở nên lệ thuộc, để rồi hiện hữu này chỉ chấp nhận sự tồn tại trong thực tế của thế giới vật chất. Nghĩa là chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc từ những gì do thế giới - vũ trụ vật chất này mang lại thôi. Ngay cả những niềm vui thuộc tinh thần hay lý trí thì, nó cũng được chuyển hóa qua cảm giác vật chất. Trong khi đó bằng niềm tin, chúng ta tin vào hạnh phúc viên mãn là có thực. Nhưng khốn nỗi, nó lại quá siêu việt vượt ra khỏi khả năng nắm bắt của con người chúng ta. Vì vậy việc loại bỏ sự lệ thuộc vào thế giới vật chất là điều rất khó chấp nhận theo lẽ tự nhiên. Đây chính là lằn ranh của sự dằn co giữa niềm tin phó thác trước sự thật. Như sự thực vẫn mãi là sự thực, cho dẫu ta không muốn thì nó vẫn xảy ra.

Con xin lỗi các ngoại, vì mừng kỷ niệm khấn Dòng là niềm vui, con lại chia sẻ những tâm trạng có lẽ không được hợp với bầu khí này. Thực ra khi chia sẻ vấn đề của tuổi già sức yếu ở đây, con muốn nói đến niềm tin và hy vọng. Con nghĩ với tuổi đời của các ngoại, có lẽ đã từng trải qua không biết bao nhiêu biến cố vui buồn, biết bao nhiêu là thành công và thất bại, biết bao nhiêu là thất vọng và hy vọng đan xen nhau...Và trong thời điểm hiện tại cho thấy niềm tin và hy vọng trong lòng các ngoại vẫn mạnh mẽ, nó đã được chứng thực bằng với lòng trung tín của mình. Vì vậy phải chăng hôm nay khi đối diện với một thân xác đau yếu bệnh tật thì, qua đó cho thấy sức mạnh nội tại của niềm tin được tỏ lộ cách mạnh mẽ như thế nào. Niềm tin đó giúp các ngoại nắm bắt hy vọng của tương lai để đưa về với thực tại. Và trong thực tại của hy vọng mà các ngoại có thể đang cảm nghiệm thì, đó không phải là hạnh phúc đích thực mà các ngoại đã dành cả cuộc đời mình để lên đường tìm kiếm hay sao ?

“Chúa đã sinh ra con và cho con làm người.”. Trong lời bài ca “Một cõi đi về”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi xuống trăm năm một cõi đi về.”. “Chúa đã sinh ra con...”, như vậy con từ Chúa mà ra; và rồi một ngày nào đó con trở về bên Chúa, là cội nguồn của con, là bến bờ hy vọng của đời con. Một đời các ngoại đã trải qua biết bao cung đường trần gian. Trong đó có lúc các ngoại cũng cảm thấy dường như mình đang “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.”; có lúc các ngoại cảm thấy cuộc đời mình như đang mang “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt.”. Giờ đây ở tuổi xế chiều, các ngoại cảm nhận được rằng thời điểm để “rọi xuống trăm năm một cõi đi về.”. Nói như thánh Augustin là: linh hồn con luôn khao khát Chúa, và chỉ có thể được an nghỉ cách bình an trong Chúa. Được ở trong Chúa đó chính là niềm hy vọng đích thực, đó là bến bờ của đời người ước mong cập bến chung cục. Mang lấy niềm tin và hy vọng đích thực này, con nghĩ dịp mừng kỷ niệm ngày khấn sẽ là một ngày tuyệt vời trong đời của các ngoại.

Những bước chân chập chững của các nữ tu khấn lần đầu; những bước chân vững chải của quý Sơ 25 năm, những bước chân chầm chậm của các mẹ - các ngoại lớn tuổi 50 – 60 – 70 năm, như đang dệt nên bản trường ca hùng tráng cho một đời tận hiến. Bản trường ca như diễn tả sự trung tín thuỷ chung trước một thế giới mau đổi thay. Bản trường ca như gửi đến một thế giới xem hưởng thụ như là hạnh phúc; thì ngược lại, buông bỏ mới thật sự mang cho cuộc sống con người an bình và hạnh phúc đich thật. Bản trường ca như tấu lên điệu khúc tha thứ và biết đón nhận những khác biệt của nhau, trong một thế giới chao đảo bởi hận thù chiến tranh. Tóm lại, bản trường ca được hợp tấu bởi nhiều thế hệ của đời tận hiến, đang nói với chúng ta như Chúa Giê-su đã nói: “Họ không thuộc về thế gian này.”, mà là công dân Nước Trời mai hậu. Chúc các ngoại, quý soeurs ngày mừng khấn đón nhận niềm vui và hạnh phúc đích thực, để qua đó làm lan tỏa sức mạnh của niềm tin và hy vọng cho anh chị em mình. Chúc quý Sơ bắt đầu và lại bắt đầu viết tiếp nên chương mới cho chặng hành trình đời mình bằng tất cả niềm tin và hy vọng.

PAUL