Nhớ lại những ngày đầu tiên bước chân vào nơi đây, lòng tôi đầy lo lắng: nào là sợ không quen với nếp sống giờ giấc nghiêm ngặt đi ngủ sớm, thức dậy sớm, ăn uống đúng giờ; nào là lo lắng vì phải “cai” điện thoại; nào là sợ gặp phải những người không cùng tính cách mà dễ phát sinh chuyện… Tóm lại, trong đầu tôi toàn là một mớ “nỗi sợ” tưởng chừng khó gỡ. Gia đình và bạn bè cũng lo lắng không kém. Ai cũng nghĩ : “Con bé này tự do quen rồi, giờ vô Tu viện chắc buồn chết mất thôi !”. Thế là mỗi khi gọi điện hay có dịp gặp, họ đều dò hỏi tôi có chịu nổi không?, có nhớ nhà không?, có “phát điên” vì nếp sống mới không?. Ấy thế mà Chúa có cách riêng của Người. Từng nỗi sợ ban đầu dần dần tan biến, thay vào đó là một sự bình an lạ lùng. Những điều tôi nghĩ sẽ rất khó, lại trở nên nhẹ nhàng đến bất ngờ. Ngay cả chính tôi cũng không thể tin được mình có thể “sống sót” ngon lành như thế, chứ đừng nói đến gia đình hay bạn bè.

Trong suốt một năm qua, kỷ niệm làm tôi nhớ nhất là ngay khi mới vào nhà Dòng, chưa được hai tuần thì… tôi gặp một “tai nạn để đời”.

Hôm đó là lễ Khấn của các chị, tôi cùng chị em hăng hái lo dọn dẹp. Vừa làm vừa nói đùa : “hong biết sau này tới phiên mình khấn, có ai dọn dẹp cho mình vậy hông ta ?” Ai ngờ, đùa chưa kịp dứt thì… đùng một cái, tôi té lật chân. Kết quả : gãy xương, khóc như mưa. Khóc vì đau thì ít, khóc vì buồn thì nhiều vì ngay buổi chiều hôm ấy, chúng tôi sẽ chính thức gia nhập nghi thức vào Đệ tử, trở thành thành viên nhỏ bé của Hội dòng. Trong khi chị em rạng rỡ hớn hở, thì tôi lại biến thành một “xác ướp Ai Cập phiên bản nhà Dòng” với cái chân bó cứng, thêm hai cây nạng kè kè hai bên. Tôi nhớ rõ, từ nhà qua Nhà nguyện, nước mắt tôi cứ ròng ròng, hai tay ôm nạng như ôm Thánh giá, vừa đi vừa nghĩ : “Thôi rồi, mới vô nhà Dòng mà ra mắt kiểu này đây !” Chị em được lên Cung Thánh trang nghiêm, còn tôi thì ngồi dưới… khóc bù lu bù loa, buồn hiu hắt. Gia đình và bạn bè mình khi nghe tin thì vừa lo vừa trêu : “Chắc ơn gọi chưa có rồi mới vô đã làm một cú chấn động thế kia !” Họ nói vậy, nửa lo nửa đùa, vì thương và muốn mình an toàn. Mình nghe xong chỉ cười nói lại : “Ơn gọi có dễ lung lay vậy không ? Gãy chân thì gãy, chứ về nhà ư không có chuyện đó đâu !” Mình còn khẳng định mạnh mẽ nữa, kiểu như : “Đừng lo, em vẫn ở lại. Một cú ngã không đủ khiến em đổi ý đâu !”

Sau cú té “lịch sử” đó, tôi được đặc cách… ở riêng một phòng. Nghe thì sang lắm, như kiểu “VIP room” vậy, nhưng thật ra lúc đầu tôi lại thấy hơi tủi thân. Các chị em thì ríu rít ở chung, tối nằm kể chuyện, cười rộn cả một góc nhà Dòng, còn tôi thì… chỉ riêng mình ta. Lâu lâu có chị đi ngang qua, ghé vào nói dăm ba câu : “Ổn không em ?”, rồi đi mất. Căn phòng lại rơi vào tĩnh lặng, chỉ còn tôi với cái chân bó bột và hai cây nạng làm bạn. Nhưng mà, Chúa đúng là khéo sắp đặt ! Chính trong cái “VIP room cô đơn” ấy, tôi lại có nhiều thời gian để nhìn lại chính mình. Ban đầu thì than thở : “Sao con lại xui dữ vậy !”, nhưng dần dần, tôi bắt đầu lắng lại và thưa với Chúa : “Chúa muốn gì nơi con ? Phải chăng Ngài đang dạy con điều gì qua cái chân gãy này ?” Và cứ thế, từ chỗ thấy buồn tủi, tôi lại được kéo vào những giây phút cầu nguyện thật riêng tư, thật thân tình. Nghĩ lại, tôi mới thấy : đôi khi Chúa có trăm ngàn cách để biến những cái xấu thành cái tốt và đây là cách Chúa cho tôi cơ hội để tôi chịu ngồi yên, bớt chạy lung tung, bớt lo chuyện người khác, mà quay về đối diện với lòng mình. Có khi, cái chân gãy không chỉ là một tai nạn, mà lại là một món quà để tôi học cách sống chậm, sống sâu, và lắng nghe tiếng Chúa rõ hơn.

Thành ra, sau này nhớ lại, tôi không còn coi đó là một “bi kịch” nữa, mà là một khởi đầu đặc biệt : khởi đầu của những cuộc trò chuyện âm thầm nhưng ngọt ngào giữa tôi với Chúa, trong căn phòng bé nhỏ mà tôi từng thấy buồn, nhưng giờ lại biết ơn vô cùng. Chính trong cái đau, cái vụng về và cả sự “quê một cục” đó, Chúa lại cho tôi một trải nghiệm nhớ đời về sự khiêm nhường và lòng kiên nhẫn. Một bước đầu thật khác lạ, nhưng cũng thật đáng quý trên hành trình ơn gọi. Cũng chính nơi đây đã giúp tôi khám phá ra chính bản thân mình. Có những việc trước kia tôi từng mạnh miệng nói : “Cái này tôi không biết làm đâu !”, “Cái đó tôi chịu, không làm được !”, hay thậm chí “Ơ, tôi không thích cái này chút nào !” Ấy vậy mà, Chúa lại khéo léo tác động, dẫn dắt tôi từng chút một. Điều lạ lùng là, chính những việc tôi từng “chê ỏng chê eo” đó lại dần trở thành điều tôi yêu thích, và ngày nào cũng muốn làm tốt hơn một chút. Đúng là Chúa có cách huấn luyện rất riêng  kiểu như Người “đăng ký” cho tôi một khóa học đặc biệt : học kiên nhẫn, học khiêm nhường, học dám thử, và học cả niềm vui từ những việc nhỏ bé thường ngày. Lúc đầu thì tôi lúng túng, có khi còn cằn nhằn, nhưng càng làm, tôi càng nhận ra rằng Chúa không muốn tôi né tránh giới hạn của mình, mà muốn tôi khám phá ra khả năng ẩn giấu bên trong, rồi nuôi dưỡng nó. Và thế là, từ chỗ “không biết, không thích, không làm được”, giờ đây tôi lại thấy hứng thú, thấy vui, và còn muốn hoàn thiện nó hơn mỗi ngày. Đúng là Chúa không chỉ gọi tôi theo Ngài, mà còn kiên nhẫn “nặn” tôi từng chút một, để tôi trở nên phiên bản tốt hơn của chính mình.

Ở nơi đây, tôi có quý ngoại, quý sơ và các chị em. Tôi cảm nhận được tình thương chan chứa nơi từng người dành cho tôi, và cho nhau nữa. Chúng tôi cùng nhau làm việc, cùng nhau ăn uống, cùng nhau vui chơi… nói chung là cái gì cũng “cùng nhau”, nên chẳng ai bị thiếu thốn hay thiệt thòi cả. Nhà Dòng thương yêu và dạy dỗ chúng tôi, để tôi cảm nhận được đó chính là tình thương mà Chúa gửi đến, như một sự bù đắp dịu dàng khi tôi không còn được gần gia đình. Ở đây, tôi còn được học rất nhiều điều hữu ích để áp dụng vào đời sống : từ những kỹ năng nho nhỏ, cho đến các môn ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh. Nhưng điều đặc biệt nhất không phải là học cách làm này làm kia, mà là được học cách sống giống Chúa hơn, để mỗi ngày một chút, tôi trở nên giống Chúa hơn. Và tôi nghĩ, đó mới chính là “môn học” quan trọng nhất mà đời Tu ban tặng cho tôi.

Một năm qua đối với tôi là một hành trình đầy ắp niềm vui. Tôi đã học được nhiều điều mới mẻ và cảm nhận sâu sắc tình yêu thương nơi Tu viện này. Mọi người thường nói, nhìn một người sống có hạnh phúc hay không thì… cứ nhìn cân nặng là biết. Và quả thật, bằng chứng sống động nhất nơi tôi chính là con số trên cân : chỉ trong một năm, tôi đã “tăng vèo vèo” tận 7–8 kg ! Ai gặp cũng trêu : “Vậy là chắc chắn hợp với ơn gọi rồi đó, chứ nếu không, làm sao mà ăn ngon, ngủ yên, tăng ký đều đều vậy được ?” Nghe thì mắc cười, nhưng tôi lại thấy trong đó có một sự thật rất dễ thương : một tâm hồn bình an, thoải mái, không còn áp lực, mới có thể “nở nang” ra như thế. Thế nên, với tôi từng ký lô tăng lên cũng giống như từng bằng chứng nhỏ về ơn gọi mà Chúa đang dẫn dắt, vừa thực tế vừa thiêng liêng, mà cũng… hài hước vô cùng.

Nhưng dĩ nhiên, mọi sự trơn tru không có nghĩa là tôi không biết buồn. Có những lúc trời mưa rả rích, hay vào những dịp đặc biệt nào đó, nhất là trong giờ cầu nguyện, lòng tôi lại chợt nhớ về gia đình, bạn bè…những kỷ niệm ngày xưa lại ùa về, làm tôi có chút lung lay trong suy nghĩ, buồn hiu hắt một hồi. Thế nhưng, trong chính những phút chông chênh ấy, tôi lại học cách thưa với Chúa : “Xin Chúa cho con vượt qua, cho con được an lòng.” Và tôi dâng lời cầu nguyện cho gia đình, cho người thân, cho bạn bè… chỉ mong họ luôn được bình an. Bởi lẽ, chỉ cần biết họ đang bình an, thì lòng tôi cũng lại vững vàng hơn để tiếp tục bước đi trong ơn gọi này.

“Tạ ơn Chúa đã gìn giữ con suốt một năm qua, trong niềm vui cũng như nỗi buồn, trong gặp gỡ hay chia ly. Con cảm tạ Chúa đã ban cho con đời sống này, được những người thân yêu của con, quý sơ và chị em nâng đỡ như gia đình, được học hỏi và gần Chúa nhiều hơn. Xin Chúa tiếp tục đồng hành với con trên hành trình phía trước.

Một năm nhìn lại, tôi chỉ có thể mỉm cười và thì thầm : “Ơn Chúa thật diệu kỳ!”.

Anna Hồng Thơm

Đệ Tử Năm II, Tỉnh Dòng Cần Thơ