Mừng lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta cũng mừng hai thánh Têrêsa Avila và Têrêsa Calcutta, vì cả ba vị đã cho chúng ta bí quyết đứng vững và thăng tiến trên đường thánh thiện: Cầu Nguyện, Canh Tân, Phục Vụ.

Tôi biết cha và chúng tôi trở nên thân thiết rất ngẫu nhiên, tình cờ, trong một hoàn cảnh kỳ lạ mà đến hôm nay, dù đã hơn mười năm quen biết, tôi vẫn chưa hiểu: tại sao Thiên Chúa muốn chúng tôi gặp nhau?

Sở dĩ những dòng chia sẻ về Têrêsa được bắt đầu bằng nhớ về người bạn linh mục, vì chính người bạn linh mục này đã mở ra cho tôi một linh đạo tuyệt vời được hình thành bởi  ba vị thánh cùng có  tên Têrêsa, vào một buổi sáng năm nào trên đường hành hương đến Lisieux, nhân dịp lễ kính chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Người bạn linh mục ấy mang một tình yêu Giáo Hội rất mãnh liệt, và  thao thức khôn nguôi trước đòi hỏi thánh thiện ở người Kitô hữu, nên càng lắng nghe, tôi càng hiểu được tấm lòng của người bạn linh mục ấy  dành cho Giáo Hội; càng chia sẻ, bạn tôi càng bộc lộ  hồn tông đồ  cháy bỏng tình yêu các linh hồn.

Theo cha bạn này, thì linh đạo nổi  bật của  ba thánh nữ cùng mang tên Têrêsa đã tạo nên một kiềng ba chân rất vững chắc cho đời sống Kitô hữu, đặc biệt đời tu trì:

1. Thánh Têrêsa Lisieux, tức Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873-1897) với đời sống cầu nguyện:

Linh đạo  của Têrêsa Hài Đồng Giêsu sở dĩ được mệnh danh là “con đường thơ ấu”, vì đó là con đường ngắn nhất, gần nhất, nhanh nhất, chắc nhất  để đến với Thiên Chúa, bởi con đường ấy đơn sơ như câu chuyện hằng ngày giữa con thơ và cha hiền, đơn sơ như tâm tình  con trẻ dành cho cha, đơn sơ như lời cha ân cần dạy bảo, khuyên răn, động viên con nhỏ, đơn sơ như ánh mắt con chiêm ngưỡng cha, và đơn sơ như cha  âu yếm nhìn con ăn, con chơi, con ngủ …

Chính tương quan đơn sơ đã làm nên xa lộ, thang máy  đưa con người đến với Thiên Chúa với một tốc độ cực nhanh, cực tốt. Chính nhờ tương quan đơn sơ,  trái tim người con được  gặp trực tiếp trái tim người  cha Thiên Chúa, mà không cần trung gian, hay  thủ tục, nghi thức  ruờm rà, nặng nề, phức tạp, phiền toái, bởi tương quan đơn sơ ấy được hình thành từ tình yêu của cả hai bên: Thiên Chúa và con người, cha hiền và con thơ.

Đời Kitô hữu, nhất là đời  tu trì cần tương quan đơn sơ của tình yêu được biểu hiện bằng đơn sơ  cầu nguyện, là điều kiện thứ nhất không thể thiếu.

2. Thánh Têrêsa Avila (1515-1582) với trái tim khao khát canh tân, đổi mới:

Bất cứ một  đời sống nào cũng cần được canh tân, cộng đoàn nào cũng cần được đổi mới. Một đời sống không canh tân để thích nghi, phù hợp với hoàn cảnh mới, nhu cầu mới, sứ vụ mới sẽ  già nua, cằn cỗi. Một  cộng đoàn không canh tân không thể tiến xa, đúng hơn, không mang lại nhiều lợi ích, vì không đổi mới, cộng đoàn ấy sẽ ù lì, chai cứng, mất hết khả năng đáp ứng  những đòi hỏi chính đáng của  các thành viên thuộc cộng đoàn. Cũng vậy,  một Giáo Hội tự mãn, lười biếng, an thân, yên phận, sợ đổi mới, tránh né  canh tân sẽ thiếu sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn làm mới mọi sự trong ngoài cho  ích lợi thiêng liêng của nhân loại.

Thánh Têrêsa Avila đã thực hiện những bước canh tân và hoàn thành cuộc cải cách vĩ đại của Dóng Kín Camêlô. Ngài là tấm gương sáng ngời của tinh thần canh tân  Giáo Hội, cải cách cộng đoàn thánh hiến cho phù hợp với đòi hỏi của Tin Mừng. Tinh thần canh tân rất quan trọng trong đời sống thiêng liêng của cộng đoàn tu trì, cũng như Giáo Hội không ngừng  đổi mới, đặc biệt qua các Công Đồng, ở đó Giáo Hội nhìn lại mình và thực hiện công cuộc canh tân  một cách quyết liệt và cụ thể vì ích lợi chung của  Dân Chúa.

3. Thánh Têrêsa Calcutta (1910-1997) với đôi tay chăm sóc, phục vụ người bị xã hội bỏ rơi:

Có đời sống cầu nguyện, tức  tương quan mật thiết trong tình yêu với Đức Giêsu, và tinh thần canh tân, đổi mới để tiến xa hơn trên đường  thiêng liêng  chưa đủ, người môn đệ của Đức Giêsu còn phải  trở nên dấu chỉ của  Thiên Chúa giàu lòng thương xót,  bí tích của Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ vô cùng từ bi nhân hậu, Đấng đến để « phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người » (Mt 20,28) bằng từ bỏ mình để  yêu thương phục vụ, bằng xoá mình để có thể quỳ xuống rửa chân cho người anh em  nghèo khó, hèn mọn bị xã hội ruồng rẫy, bỏ rơi, khai trừ, vì những con người bất hạnh này là anh em bé nhỏ được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương (x. Mt 25, 40.45).

Là thánh của thời đại, Têrêsa Calcutta đã đánh thức nhiều trái tim chai đá từ lâu ngủ say trong tham vọng, ngủ mê trong ích kỷ, ngủ vùi trong văn hoá hưởng thụ, thực dụng qua đời sống tận tâm phục vụ những phận người hoàn toàn bị quên lãng, bỏ rơi, chăm  sóc những mảnh đời bị coi như không còn một cỏn con giá trị, một mảy may ích dụng. Chính đôi tay  vực dậy, tắm rửa, băng bó, chữa lành và trái tim chạnh lòng thương cảm , an ủi, hồi sức, “phục sinh” của con người Têrêsa Calcutta đã đánh động rất nhiều tâm hồn và khơi  nguồn  thiện tâm thiện chí cho nhiều thế hệ.

Thực vậy, bất kể là  giáo sĩ, tu sĩ hay  giáo dân, chúng ta  đều cần thực thi ba điều căn bản  để  tiến xa trên đường thánh thiện, ba điều đã được  ba con nguời thánh làm chứng bằng chính  cuộc đời mình : Đơn sơ  sống đời cầu nguyện như thánh Têrêsa Lisieux,  thao thức canh tân, đổi mới để luôn đi sát Tin Mừng như thánh Têrêsa Avila và phục vụ anh chị em  khốn cùng, bất hạnh  như thánh Têrêsa Calcutta.

Mừng lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hôm nay, chúng ta cũng mừng hai thánh Têrêsa Avila và Têrêsa Calcutta, vì cả ba vị đã cho chúng ta bí quyết đứng vững và thăng tiến trên đường thánh thiện: Cầu Nguyện, Canh Tân, Phục Vụ, và tất nhiên, người viết không quên cám ơn người bạn linh mục đã chia sẻ niềm xác tín này.

Jorathe Nắng Tím 

https://tinmungduongpho.com/teresa/