ĐỀ TÀI VI
“”Lòng thương xót là luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để vào người anh em gặp thấy trên đường đời”. (Misericordiae Vultus, 2)
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh đến nếp sống tu trì với tinh thần của một linh đạo hiệp thông, mà chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khải triển trước đó. “Sống hiện tại cách say mê có nghĩa là trở nên "những chuyên viên hiệp thông", "những kẻ làm chứng và kiến tạo "dự án hiệp thông" là chóp đỉnh của lịch sử loài người theo ý định của Thiên Chúa.
Trong một xã hội xung đột, một xã hội khó chung sống giữa những nền văn hóa với nhau, một xã hội chèn ép những kẻ cô thế, xã hội bất bình đẳng, chúng ta được kêu gọi trở nên khuôn mẫu cụ thể của cộng đoàn có khả năng sống tương quan huynh đệ, nhờ biết nhìn nhận phẩm giá của mỗi người và chia sẻ các ân huệ mà mỗi người đã lãnh được. Vì thế anh chị em hãy là những con người của sự hiệp thông, hãy can đảm hiện diện tại những nơi có đố kị và tranh chấp, và anh chị em hãy trở nên dấu chỉ khả tín của sự hiện diện của Thánh Linh, Ðấng đổ tràn xuống các tâm hồn niềm sau mê cho hết mọi người được trở nên một (x. Ga 17,21).
Anh chị em hãy sống huyền nhiệm của sự gặp gỡ: "khả năng lắng nghe người khác, khả năng cùng nhau tìm ra con đường, phương pháp" [3], hãy để cho mình được chiếu sáng bởi mối tương quan tình yêu đã xuyên qua Tam Vị (x. 1Ga 4,8) như khuôn mẫu cho mọi tương quan liên bản vị.” (x. ĐGH Phanxicô, Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến, số I, 2)
Đoạn trích dẫn Tông Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến Linh Đạo Hiệp Thông mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển trước đó trong Tông Huấn Vita Consecrata, khi Thánh Giáo Hoàng nói về đời sống cộng đoàn tu trì. Trong đoạn văn này, chúng ta thấy những yếu tố căn bản làm nên Linh Đạo Hiệp Thông: Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa làm khuôn mẫu cho tương quan liên bản vị, sống huyền nhiệm của cuộc gặp gỡ, khả năng sống tương quan huynh đệ.
Những nguyên lý thần học soi sáng cho tinh thần này được kín múc từ tinh thần của Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thực vậy, để làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng đời hôm nay, tinh thần Linh Đạo Hiệp Thông rất cần được sống và thể hiện trong nếp sống tu trì của chúng ta, ngay trong nội tại của một cộng đoàn tu trì trước khi được thể hiện, như dấu chỉ Hiệp Thông Nước Trời, giữa trần gian.
2, Hiệp nhất trong Đức Kitô
"Họ để mọi sự làm của chung và phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Cv 2,44). Đoạn Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy nếp sống của cộng đoàn tín hữu tiên khởi: hiệp nhất, đồng tâm nhất trí, để mọi sự làm của chung, hưởng theo nhu cầu, chuyên cần cầu nguyện và nghe các Tông Đồ Giảng. Tình huynh đệ trong đời tu cũng muốn hoạ lại theo cách sống này: liên đới cùng chí hướng, chia sẻ kiến thức, sự hình thành và định hướng trong đời tu, một bầu khí hòa hợp để sống đức hạnh, ổn định kinh tế, gương mẫu của các thành viên, sự cộng tác hoạt động tông đồ, sự đảm bảo cho công việc được tiếp tục một khi nó vượt quá nỗ lực bản thân, nhất là tình yêu và sự hỗ trợ của cộng đoàn. Ngay cả những khía cạnh khó khăn của đời sống cộng đoàn như sự tuân phục quyền bính, bỏ ý riêng, chịu đựng những khuyết điểm của nhau, cũng mang lại nhiều cơ hội để người tu sĩ khổ chế và hy sinh.
Theo nhận định của cha F. Martinez (x. Đời tu gạn đục khơi trong), ngày nay, đời sống cộng đoàn không còn nghiêm ngặt như trong những thế kỷ đầu của thời sơ khai trong lịch sử dòng tu. Hiện nay, các tu sĩ được giữ một số đồ dùng như tu phục và sách vở theo nhu cầu cá nhân. Họ có thể sử dụng những đồ dùng cần thiết và được chăm sóc sức khoẻ thích đáng, nhất là ở Châu Âu hoặc Châu Mỹ, chuyện bảo hiểm y tế là bắt buộc phải có.
Có thể có tu sĩ, trước khi vào Dòng có mức sống trung bình, dễ bằng lòng với những tiện nghi tối thiểu. Nhưng cho dù có đầy đủ nhu cầu vật chất, họ cũng không nên coi nhẹ tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn là yếu tố giúp họ tiến đức trong đời sống thiêng liêng. Mặc dù đời sống chung cũng có nhiều cơ hội để phạm lỗi; nhưng nó cũng tạo nên nhiều cơ hội cho đức ái và hy sinh.
Đời sống cộng đoàn không chỉ dừng lại ở việc để của cải vật chất làm của chung; điều còn quan trọng hơn đó là nếp sống này còn giúp các thành viên biết chia sẻ của cải tinh thần nữa: cả tâm trí cả sức lực, chia sẻ về đức vâng phục và khiết tịnh, chia sẻ về các nhân đức và tài năng, chia sẻ về tất cả những gì mà người tu sĩ có cũng như những gì tạo nên con người của mình. Đời sống chung vừa hỗ trợ vừa đem mọi của chung ấy để phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Người đời làm việc nhằm mưu tìm một cái gì đó; còn người tu sĩ thì không như vậy.
Họ làm vì tình yêu Thiên Chúa và vì cộng đoàn. Họ hiến dâng thời giờ và năng lực của mình cho Giáo Hội. Đây không phải là một vấn đề nhỏ, bởi đã là con người thì còn điều khiếm khuyết; dù đã đi tu, nhưng thử hỏi ai có thể nói mình đã hoàn toàn từ bỏ cách trọn vẹn? Mỗi tu sĩ đều đang trên hành trình hoàn thiện, một hành trình được sánh ví theo hành trình của các Môn Đệ Đức Giêsu Kitô, đi theo Thầy Giêsu từ Galilê lên Giêrusalem, từ Núi Cao Tabo đến Núi Sọ, và cùng Thầy trải qua những khổ đau của mầu nhiệm Thập giá (lược đồ theo Vita Consecrata, trong đó Đức Thánh Giáo Hoàng đã dựa trên bản văn Nhất Lãm để khai triển).
Xét theo hướng tích cực, đời sống cộng đoàn cất đi những gánh nặng để người tu sĩ có thể thường xuyên cầu nguyện và làm việc cho tha nhân. Các linh mục và các nữ tu có thể không có nhiều thời giờ để cầu nguyện như họ muốn; nhưng họ vẫn có nhiều thời giờ dành cho việc tâm linh hơn các người cha, người mẹ trong các gia đình là những người ít tham dự thánh lễ, rước Chúa mỗi ngày. Giả như những tu sĩ của một dòng hoạt động mất nhiều thời gian cho việc tông đồ hay dạy học, thì các lời khấn vẫn đem lại cho họ nhiều tự do và thời giờ hơn để họ hiến thân cho Thiên chúa.
3, Cộng đoàn và Ba Lời Khuyên Phúc Âm
Đời sống cộng đoàn được đặt nền trên ba lời khấn, nó cho phép các tu sĩ thể hiện đức mến trong đời sống. Đời sống chung tại các tu viện là một trường học chiêm niệm. Nếu người tu sĩ còn cầu nguyện ở cấp độ thấp thì đời sống cộng đoàn chuẩn bị cho họ cầu nguyện ở cấp độ cao hơn; vì đời sống cộng đoàn đòi hỏi việc thực hành các nhân đức, đặc biệt tình bác ái huynh đệ.
Bằng việc tự kiểm soát sự nông nổi của cảm xúc và đam mê (hay nói cách khác, đó là đời sống khổ chế: askèsis, nghĩa là tập luyện, cố gắng, thành tích theo chiều hướng tâm linh), các nhân đức luân lý chuẩn bị cho cầu nguyện ở cấp độ cao hơn. Truyền thống đan tu mang đến cho thuật ngữ nói trên một ý nghĩa rất chính xác: nó nói lên cuộc chiến nội tâm để đạt được việc: tinh thần chế ngự trên vật chất (về điều này, trật tự của vâng phục có ý nghĩa: thân xác tuân phục lý trí, lý trí tuân phục tâm hồn, tâm hồn tuân phục Thiên Chuá).
Nếu như các đam mê làm cho con người say đắm của cải vật chất, nhục dục, vinh hoa phú quý, quyền thế cao sang, vvv, các nhân đức giúp tái lập sự bình an trong tâm hồn và hòa thuận trong cộng đoàn. Chẳng hạn như, đức công bằng giúp dẫn tới việc chiêm niệm nhờ việc người tu sĩ trả lại cho người khác điều mà người đó có quyền được hưởng, như vậy loại bỏ được mọi nguyên nhân của những xung khắc và bất hòa.
Xét sâu xa ra, một lời nói xấu, nói hành có thể phạm đến lẽ công bình một khi không cho đương sự có cơ hội giãi bày nỗi lòng, hoặc tự biện minh cho mình; nhất là hành vi này phạm đến danh dự của người khác. Đối lại với sự xấu này, sự thinh lặng nội vi đã ngăn chặn được nhiều tội lỗi.[1]
Khổ chế Kitô giáo, theo nghĩa rộng, bảo vệ tinh thần khỏi mọi ảnh hưởng của thế gian và khuyên người ta chiến thắng sự dữ bằng cách sáng tạo sự thiện. Người tu sĩ được mời gọi để kiến tạo một cộng đoàn của tình yêu thương bác ái, không giống như kiểu cách trần thế. Cách thực hành khổ chế cũng không ngoài việc kiến tạo con người tu sĩ và xây dựng cộng đoàn. Chúng ta có thể lấy ví dụ: Truyền thống đan tu, tiếp nối truyền thống ẩn tu, khai triển chiều kích tình yêu, lòng mến tha nhân cùng sự khổ chế. Điều này gây ấn tượng tích cực: nói lên tình yêu tuôn tràn và sự êm đềm hoàn vũ đối với mọi tạo vật.
Đời sống cộng đoàn cũng đưa người tu sĩ đến kết hiệp trong cầu nguyện, vì tình huynh đệ diễn tả sự hiệp nhất như sự hiệp nhất của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Chân lý này gợi hứng cho thánh Âu-tinh để nói rằng: “Nơi đâu có yêu thương, ở đó có Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện”. Đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là đời sống “cộng đoàn”.
Đời sống thánh hiến của người tu sĩ nơi cộng đoàn chuẩn bị cho họ trở thành vị tông đồ của tình yêu, vì nó khơi lên trong họ tình yêu tha nhân được đặt nền tảng trên các nhân đức vững bền. Người tu sĩ tự nguyện chia sẻ gánh nặng, những hy sinh của đời sống cộng đoàn, để nhờ đó họ có thể dâng lời cầu xin và đền tội cho các linh hồn. Nếu người tu sĩ không yêu thương tha nhân, những buổi cầu nguyện lâu giờ, những tiết học vất vả, việc tuân giữ tỉ mỉ lề luật sẽ trở nên vô ích và không bao giờ đưa người tu sĩ đến cầu nguyện được.
Như thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có lòng bác ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay được cả lòng tin có thể chuyển núi dời non, mà không có lòng bác ái, thì tôi cũng chẳng là gì.” (1Cr 13,1-2).
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4). Mối phúc thứ hai trong Bát Phúc mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về một nhân đức khiêm nhường trong đời tu. Trong đời tu, thường người ta nghe nói nhiều đến metanoia; mà một khi chú trọng đến hoán cải, đời sống thiêng liêng khởi đi trong khiêm nhu. Nơi các nhà khổ chế, sự khiêm hạ có nghĩa là nghệ thuật đứng trúng vào chỗ của mình[2]; Tin Mừng cho chúng ta nhiều mẫu gương, thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Maria, vvv. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa khiêm nhường là nhìn nhận khả năng mình có là gì, bởi động lực của khiêm nhường là mọi sự đều bởi Chuá ban, tất cả là hồng ân.
4, Những yếu tố để làm môn đệ trong cộng đoàn
Kết hiệp với Đức Giêsu là điểm chủ yếu của đời người môn đệ: thân mật với Đức Giêsu Kitô, tin vào Đức Giêsu, hiệp nhất với Người, là nền tảng cho đời sống chung. Cộng đoàn này được thành lập nhờ Lời Chuá và quy tụ quanh Lời Chúa. Do vậy, cộng đoàn phải vượt qua những ranh giới huyết thống và địa dư, để đạt đến nét bên trong, trong đó hạt nhân để xây dựng cộng đoàn chính là tình yêu. Cộng đoàn chủ yếu hệ tại việc thực hành yêu thương và hiệp thông.
Xây dựng và tái thiết cộng đoàn: Chuơng 18 trong Tin Mừng Mátthêu cho thấy Đức Giêsu huấn luyện các môn đệ về một số thực hành để xây dựng cộng đoàn: Phục vụ, sửa lỗi huynh đệ, cầu nguyện chung, tha thứ cho nhau. Việc phục vụ noi theo gương của Đức Giêsu, Đấng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; việc sửa lỗi huynh đệ căn cứ trên đức mến và những giá trị nhân bản, tha thứ vô điều kiện; đời sống cầu nguyện và chuyên cần lắng nghe Lời Chuá, trong thân ái huynh đệ và cử hành Bữa Tiệc của Chuá (Cv 2,42). Những hình thức đó giúp xây dựng cộng đoàn, và lo cho sứ vụ: làm cho Nước Chuá hiện diện. Hai nét này được nối kết trong một tình mến.[3]
Cộng đoàn mang tính chất của người môn đệ Đức Kitô: Kiểu mẫu cộng đoàn cơ bản của các tín hữu sơ khai là điển hình cho đời tu trì. Một cộng đoàn kiểu mẫu có hai mục tiêu: xây dựng Giáo Hội địa phương và giúp cho ngôi vị thể hiện ơn gọi của mình. Cộng đoàn là nơi để thánh hoá cá nhân theo nghĩa tích cực: là nơi để hoán cải theo ánh sáng Tin Mừng, là nơi phù hợp để lắng nghe Lời Chuá và đi tìm Thánh Ý Thiên Chuá, là nơi học tập phục vụ, liên đới, xả kỷ trong đời sống hằng ngày. Một cộng đoàn bao gồm những thành viên với nét đa dạng, hiệp nhất trong tổng thể, chung một lý tưởng, một sứ vụ và một dự phóng Tin Mừng. Do vậy, việc thánh hoá bản thân song hành với việc thánh hoá cộng đoàn.
Đây là một cộng đoàn của cảm nghiệm, chứ không phải một cộng đoàn mang tính chức năng. Đây là một cộng đoàn được Thần Khí Chuá hướng dẫn, hoạt động. Việc cùng lắng nghe Lời Chuá, chia sẻ cầu nguyện, cử hành phụng vụ với tất cả niềm tin, vvv còn mạnh thế hơn là đặt nền trên những tri thức nhân loại (dù chúng ta công nhận giá trị của những tri thức này là cần cho đời sống cộng đoàn tu trì). Cũng trong môi trường đó, tu sĩ được mời gọi sống cảm nghiệm hồng ân, ngay cả việc sửa lỗi và hoà giải, là những thực hành chủ yếu để xây dựng cộng đoàn.
Chiều kích thần học không loại trừ chiều kích nhân loại. Nguyên tắc thần học kinh viện cho thấy “ân sủng không phá hủy tự nhiên, nhưng kiện toàn nó”. Những dự phóng cộng đoàn, những nét phong phú của đặc tính, văn hoá địa phương, lịch sử của một đời người, … vừa làm phong phú cộng đoàn, vừa là thách đố.
Điều cần thiết là biết áp dụng những kiến thức nhân loại để giảm nhẹ gánh nặng của đời sống chung, và hướng nhiều hơn về chiều kích tâm linh. Thiếu óc thực tiễn cũng có nguy cơ gây xung khắc, lỗi lầm trong đời sống cộng đoàn, bởi đôi khi ta có thể đòi hỏi ở cộng đoàn quá nhiều, trong khi chưa biết hy sinh vì cộng đoàn. Cuối cùng, việc là tu sĩ trong cộng đoàn được nhìn nhận là căn bản khi tu sĩ biết đào sâu căn tính đời tu. Điều này giúp người tu sĩ đứng vững trước những ảnh hưởng của xã hội, và ngay cả trước những khó khăn trong đời sống.
Để kết thúc đề tài hôm nay, thiết nghĩ cần nhắc lại lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Tôi muốn ngỏ lời đặc biệt với các bạn trẻ. Các bạn là hiện tại bởi vì các bạn đang sống trong Dòng, và mang lại sự đóng góp quyết định cho Dòng nhờ sự trẻ trung và quảng đại của cuộc lựa chọn của các bạn. Ðồng thời các bạn cũng là tương lai bởi vì các bạn sẽ được gọi để nắm giữ vai trò điều khiển việc linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, sứ vụ của Dòng. Trong năm nay, các bạn sẽ là những người chủ động trong cuộc đối thoại với thế hệ đàn anh.
Trong tình hiệp thông huynh đệ, các bạn có thể học hỏi kinh nghiệm và sự khôn ngoan của họ để trau dồi hiểu biết, và đồng thời, các bạn có thể đề nghị với họ lý tưởng của Dòng thuở ban đầu, mang lại sức năng động tươi trẻ nhờ lòng phấn khởi của các bạn, ngõ hầu thảo ra những phương hướng mới để sống Tin mừng, và mang lại những giải đáp cân xứng cho nghĩa vụ phải làm chứng và loan báo. Tôi rất vui mừng vì biết rằng các bạn trẻ thuộc nhiều dòng sẽ có những cơ hội gặp gỡ nhau. Ước mong những cuộc gặp gỡ này sẽ trở thành con đường thường xuyên để hịêp thông, để nâng đỡ lẫn nhau, để liên kết.” (Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến, I, 3)
[1] Paul Evdokimov, Đời sống thiêng liêng xưa và nay, tr. 184-185.
[2] Paul Evdokimov, sđd, tr. 195.
[3] F. D. Martinez, sđd., tr. 326.
Nguồn: http://gioanthienchua.net
Ngạn ngữ Anh quốc có câu: “không ai là một hòn đảo”. Thật vậy, con người sinh ra đâu chỉ sống cho chính mình nhưng còn là sống cho, sống với người khác. Mọi việc cá nhân thực hiện đều có ảnh hưởng đến người khác.
Đời sống cộng đoàn là nét đặc trưng của đời sống tu trì. Nét đặc trưng ấy được thể hiện cách cụ thể qua đời sống yêu thương hiệp nhất trong cộng đoàn; và đó cũng là dấu chỉ cho người môn đệ của Đức Kitô (x. Ga 13,35). Khi sống yêu thương hiệp nhất thì cộng đoàn tu trì đã phát triển hết tất cả sự phong phú của mình. Thật vậy, khi ấy cộng đoàn sẽ không là cộng đoàn thuần túy nhân loại, không là một thực tại tầm thường nhưng mang tính thiêng liêng vì cộng đoàn ấy được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi. Tuy nhiên để có thể xây dựng cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương, thiết nghĩ cần nhận diện được những thách đố đặt ra cho đời sống ấy. Trong viễn tượng ấy, bài viết dưới đây là những suy tư cá nhân về những khó khăn mà đời sống cộng đoàn có thể gặp phải dưới khía cạnh những tương quan (tự nhiên) trong cộng đoàn.
- Đời sống cộng đoàn bắt nguồn từ mầu nhiệm Ba Ngôi. Chính Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu. Tình yêu ấy được thể hiện trong tương quan Cha-Con-Thánh Thần. Người sống đời thánh hiến sẽ thông phần tình yêu ấy cách đặc biệt nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần và mỗi người chỉ có thể sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cộng đoàn khi yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần được đổ xuống trong lòng: “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Ngài đã ban cho chúng ta”(Rm 5,5). Khi sống yêu thương là mỗi người được hiệp thông và góp phần họa lại mầu nhiệm ấy trong cộng đoàn. Bởi vì, một mặt đời sống cộng đoàn phải là họa ảnh của tình yêu Ba Ngôi giữa lòng trần gian, đồng thời, chính nếp sống cộng đoàn sẽ giúp mỗi thành viên sẽ sống đời tận hiến cách trọn hảo hơn. Vì thế, nhiệm vụ của người sống đời thánh hiến là sống và làm chứng cho tình yêu ấy chính nơi đời sống cộng đoàn của mình.
- Không ít người thường quan niệm đời tu là một thiên đàng trần thế. Chính vì vậy mà nhiều người bước vào đời sống tu trì (cộng đoàn) với những đợi chờ từ hình ảnh một cộng đoàn lý tưởng trong tâm trí mình: mọi người sống yêu thương và hiệp thông trong tình huynh đệ từ đời sống tinh thần đến đời sống vật chất. Tuy nhiên, trong thực tế ngoài những người đã tìm được niềm vui, sự hiệp thông trong đời sống cộng đoàn, vẫn còn đó không ít người chỉ thấy nét tiêu cực và đời sống chung là một gánh nặng cho bản thân. Có thể nêu ra một số thực trạng: thiếu thống nhất trong cuộc sống và những tác động tiêu cực từ môi trường xã hội.
Thật vậy, nhiều người sống đời thánh hiến đã tách biệt đời sống cộng đoàn với việc mục vụ. Cuộc sống trong cộng đoàn như là một sự hiện diện thụ động, không “ăn nhập” với đời sống chung. Họ tự phân mảnh đời sống của họ, tách rời chính mình với đời sống cộng đoàn. Điều này gây ra những tác động tiêu cực đến từng cá nhân và cả cộng đoàn vì cuộc sống con người gồm nhiều phương diện: thể lý, đạo đức, tinh thần… những khía cạnh ấy hòa quyện chặt chẽ với nhau làm nên một tổng thể hữu cơ. Đời sống của một cá nhân chỉ triển nở khi họ chú ý phát triển đúng đắn và hài hòa mọi phương diện trong đời sống nhất là đời sống chung trong cộng đoàn.
Một thế giới năng động nhưng cô độc và trống vắng đang xâm nhập nhà tu. Xã hội hiện đại đa phức, bận bịu của cuộc sống, mê cung của các trào lưu làm người sống đời thánh hiến dễ bị phân mảnh và cuốn vào dòng chảy ấy với nguy cơ lạc mất chính mình. Người sống đời thánh hiến sẽ lạc mất chính mình và làm biến dạng đời sống yêu thương của cộng đoàn khi không chấp nhận mình và đón nhận nhau; khi không biết đối thoại và lắng nghe nhau; khi sống thờ ơ với nhau và không dành thời giờ quan tâm đến nhau.
- Bước vào tu là bước vào hành trình sửa đổi để mỗi ngày nên tốt hơn. Tiến trình sửa ấy không phải ngày một ngày hai nhưng là suốt đời. Nhất là sửa trong đời sống chung vì mỗi người có những đặc điểm và lịch sử cá nhân khác nhau. Khi hiểu và chấp nhận của người khác, mỗi người sẽ trưởng thành và làm phong phú ơn gọi riêng của mình. Thật vậy, mỗi người đều có một nét đặc thù và khác biệt riêng về: tâm lý, văn hóa, tính tình, khả năng và mỗi người là một bông hoa với vị trí riêng trong cộng đoàn, góp phần làm nên vẻ đẹp chung của cộng đoàn sống đời thánh hiến. Cộng đoàn người sống đời thánh hiến cần đến sự đa dạng của các thành viên “không có sự chia rẽ trong thân thể, trái lại, các bộ phận đều lo lắng cho nhau”(1Cr 12,25). Nên điều tiên quyết là mỗi người cần phải đổi mới cách nhìn và lối sống để trở nên người đồng hành của nhau. Cụ thể, cần khiêm tốn chấp nhận chính mình và đón nhận anh chị em với tất cả con người của họ. Chấp nhận chính mình với những điểm yếu, khiếm khuyết và tập đón nhận cái yếu đuối của anh chị em. Những điểm giống nhau giúp hiểu nhau nhưng chính việc đón nhận những khác biệt giúp yêu thương và làm phong phú cho nhau. “Sự hiệp nhất và đa dạng kết hợp với nhau thành sự phong phú. Mỗi người mang những gì Thiên Chúa đã ban cho riêng mình để làm cho người khác trở nên phong phú… cộng đoàn như một dàn nhạc trong đó tất cả cùng chơi chung với nhau trong sự hòa hợp nhưng âm sắc của mỗi nhạc cụ không bị xóa bỏ mà trái lại đặc tính riêng của từng nhạc cụ sẽ đạt đến mức tối đa” (ĐGH Phanxicô, Yết kiến chung, ngày 09/10/2013).
Ngoài ra, mỗi thành viên cần ý thức giới hạn để cần sự trợ lực của người khác. Mỗi người có một nét độc sáng trong chương trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn là những người tìm kiếm và kinh nghiệm về Thiên Chúa. Do đó, mỗi người đều cần sự trợ lực. Khi một người biết chấp nhận chính mình sẽ dễ dàng mở rộng tâm hồn đón nhận những trợ lực nơi anh chị em của mình.“Một nhân cách vững mạnh nhưng bình thản nhẹ nhàng, được xây dựng trên việc vui lòng chấp nhận sứ mạng độc nhất và giới hạn duy nhất của mình. Chỉ khi nào một người chấp nhận chính thực tại của mình thì mới thấy được bình an nơi chính mình.”(Adrian Van Kaam, C.S.Sp., Religion and Personality, New York: Englewood Cliffs, 1964; Nhân cách tôn giáo, Ngô Văn Vững dịch, trang 73-74). Khi ấy, mỗi người sẽ sống dưới và cho những đòi hỏi của ân sủng; biết lấy khuôn mẫu hành xử của Thiên Chúa với chính mình cư xử với anh chị em. Nhờ vậy, đời sống cộng đoàn sẽ trở nên phong phú và triển nở. Đức Giê-su là Thiên Chúa tương quan. Mỗi người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người cũng phải xây dựng chính mình qua mối tương quan ấy với Thiên Chúa và tha nhân.“Đức tin là một cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su và chúng ta phải làm điều Đức Giêsu đã làm là gặp gỡ người khác” (ĐGH Phanxicô, Lời huấn dụ dành cho các phong trào giáo dân, ngày 18/05/2013). Anh chị em là bước đầu để gặp gỡ Đấng Tình quân; và lắng nghe nhau là bước đầu để thiết lập mối tương quan với anh chị em trong cộng đoàn.
- Sống tinh thần phục vụ và hăng say cho sứ vụ là đòi hỏi quan trọng nhưng đời thánh hiến đâu chỉ là như thế. Đời sống người thánh hiến trên hết và trước hết là sự gắn bó với Đức Kitô nên phải dành giờ để lắng nghe và gặp gỡ Người (x. Lc 10, 39) để rồi đến với anh chị em trong cộng đoàn. Tuy nhiên, do những ảnh hưởng khác nhau, người sống đời thánh hiến ngày càng khó ra đi để gặp gỡ anh chị em. Lý do có thể là nhiều người thường có thái độ nhìn anh chị em với cặp kính tối màu; hoặc việc “làm ngơ”, “bịt mắt bịt tai chẳng thèm nghe” xem như không có sự hiện diện của anh chị em trong cộng đoàn. Với thái độ như thế, người sống đời thánh hiến không thể hiệp thông. Khi ấy cộng đoàn nên như hỏa ngục và anh chị em là gánh nặng cho nhau.
Để phá vỡ tình trạng chiến tranh lạnh ấy, khả năng đối thoại và lắng nghe nhau là điều rất quan trọng. Đó là chiếc cầu để đi vào thế giới của người khác. “Phải đi ra luôn luôn! Chúng ta hãy làm điều này với tình yêu thương và dịu hiền của Thiên Chúa trong sự tôn trọng và kiên nhẫn”(ĐGH Phanxicô, Yết kiến chung, ngày 27/3/2013). Con người cần lắng nghe nhau hơn là nói. Vì thế mỗi người cần “một đôi tai thật to và một cái miệng nhỏ”. Bí quyết để đối thoại và lắng nghe hiệu quả là sự kiên nhẫn, quên mình, lắng nghe với cả con tim chân thành và đến với anh anh chị em với tất cả con người chứ không bằng những mặt nạ.“Tự bản thân con người là không hoàn hảo, con người cần phải có tương giao. Con người cần phải lắng nghe. Chỉ như vậy, con người mới có thể nhận biết chính mình, mới trở thành chính mình” (x. Bài nói chuyện của ĐGH Bê-nê-đi-tô, đăng trong bản tin tổng hợp trên trang web: hđgmvietnam.org ngày 28/2/2010)
- Ngạn ngữ Anh quốc có câu: “không ai là một hòn đảo”. Thật vậy, con người sinh ra đâu chỉ sống cho chính mình nhưng còn là sống cho, sống với người khác. Mọi việc cá nhân thực hiện đều có ảnh hưởng đến người khác. Nếu quan tâm đến chính mình quá sẽ khiến người sống đời thánh hiến loại trừ tất cả khi đó đường về nhà Chúa với họ sẽ bị mất hút trong bụi cây ích kỷ. Thái độ quy ngã sẽ làm giảm bớt sự cởi mở và tham gia với anh chị em. Quả vậy, đời sống của mỗi thành viên phải mở rộng với thực tại và hiện diện đầy đủ với mọi người. Thần học gia Karl Rahner trong tác phẩm Doctrine anh Life, đã nói: “không thể có cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếu không được một cảm nghiệm về thế giới làm trung gian. Cái là trung gian cho cảm nghiệm về Thiên Chúa chủ yếu là liên hệ của con người với những con người khác”. Nhiều người chỉ biết chăm chăm chú chú cho việc của riêng mình hơn là lo cho việc chung với phương châm “việc ai người ấy làm”. Vì bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân, con người ngày trở nên ích kỷ, nhiều cộng đoàn trở nên như nhà trọ; mỗi người chỉ biết đời sống riêng tư của mình và lao vào mọi thứ công việc dưới danh yêu thương và phục vụ vì cộng đoàn nhưng thật ra là chỉ đi tìm bản thân và làm theo ý mình. Đây là mối đe dọa hàng đầu cho sự hiệp thông trong cộng đoàn. Do đó, mỗi thành viên cần phải quan tâm đến anh chị em của mình. Vì đời sống cộng đoàn là một đời sống đặt trên sự tương quan: tương quan giữa cá nhân và cộng đoàn. Đó là một tương quan hai chiều và cả hai cùng hỗ tương cho nhau:“chúng ta liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể”(Rm 13,5).
- Nhiều người sống đời thánh hiến có nguy cơ là tín đồ của “căn bệnh thờ ơ”: cùng sống trong cộng đoàn mà chẳng biết điều gì đang xảy ra với anh chị em và cộng đoàn. Trong cộng đoàn sẽ có những thành viên “yếu nhược về thể lý hoặc rã rời về tinh thần”. Nếu không quan tâm cộng đoàn sẽ “biến” họ trở thành những khách trọ hay những con chiên bị bỏ mặc, cô đơn và lạc lõng ngay chính trong cộng đoàn. Điều này khiến họ bị đẩy họ ra xa và sống tách biệt với cộng đoàn. Họ là những người cần được khích lệ và giúp đỡ nhất. Trớ trêu thay và nghịch lý thay! Bởi vì “Chính nhờ tình yêu của Thiên Chúa được đổ tràn trong tâm hồn chúng ta mà cộng đoàn tu trì khởi đầu và được xây dựng thành một gia đình thực sự, trong đó mọi người quy tụ với nhau nhân danh Chúa.”(Bộ Tu sĩ, Đời sống huynh đệ cộng đoàn, số 8). Những thành viên khác cần quan tâm đến những anh chị em này cách đặc biệt để họ cảm thấy họ thuộc về cộng đoàn và tích cực trong việc xây dựng cộng đoàn qua việc kết hợp với Chúa Ki-tô chịu đau khổ. “Lắng nghe quan tâm câu chuyện của những người đang chịu đau khổ, nâng đỡ bước chân của những người không thể tự mình bước đi. Hãy gạt bỏ mọi hình thức ngạo mạn, hầu biết cúi xuống với tất cả những ai mà Thiên Chúa đã trao ban” (ĐGH Phan-xi-cô, Giáo hội giàu lòng thương xót, NXB Tôn giáo 2015, trang 106, bản dịch việt ngữ của Augustine Nguyễn Minh Triệu S.J).
Không chỉ với những anh chị em ấy, mà bệnh thờ ơ cũng xảy ra với chính những thành viên “bình thường” khác. Đôi khi, mỗi người chỉ “gặp” nhau trong công tác mà chưa gặp được chính con người của nhau. Người sống đời thánh hiến cần phải cân bằng giữa sứ vụ và đời sống cộng đoàn. Những công việc bên ngoài đã chiếm hết thời gian cho nhau và cho đời sống cộng đoàn. Khi ấy, các thành viên sẽ tham gia các sinh hoạt chung mang tính chiếu lệ. Sống như thế là xem thường tinh thần trách nhiệm với tập thể mình đang sống. Để xây dựng cộng đoàn phát triển, mỗi cá nhân cần phải hiện diện đích thực như những con người sống động, dấn thân với tất cả tâm hồn vào công việc và trách nhiệm chung trong cộng đoàn. Nếu không, người sống đời thánh hiến dễ rơi vào nguy cơ: có thể rất thành công trong công việc mục vụ nhưng lại mất đi căn tính của đời tu. Người viết thiển nghĩ: mỗi người cần phải tự vấn: tôi sẽ làm gì cho cộng đoàn chứ không phải cộng đoàn sẽ đem đến cho tôi điều gì?
Kết luận
Chiều kích cộng đoàn là yếu tố quan trọng trong đời tu. Chiều kích này tuy phong phú tùy từng cộng đoàn nhưng cùng quy về một mục đích theo sát gót Đức Giêsu. Thiếu yêu thương và hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì sẽ làm cộng đoàn thiếu thuyết phục khi làm chứng tá cho tình yêu Chúa và sự sống động của Tin mừng. Do đó, mỗi thành viên trong cộng đoàn cần phải tích cực góp phần xây dựng đời sống cộng đoàn hiệp thông trong huynh đệ: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cần phải phối hợp hài hòa và nhịp nhàng giữa sứ vụ và cộng đoàn. Trách nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đoàn phải cố gắng cộng tác, xây dựng tích cực để bầu khí cộng đoàn tu trì trở nên đầm ấm và được tràn ngập tình huynh đệ hiệp nhất yêu thương.
Felicitas
http://www.gplongxuyen.org
Cô đơn là một phạm trù, một thực tại của tâm hồn, không ai giống ai, mỗi người một vẻ và thật khó diễn tả bằng lời. Thực tại ấy gắn liền với thân phận con người trong kiếp nhân sinh. Thành ra, dù mới chập chững bước đi trong Ơn gọi hay đã có thâm niên tu trì, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm ít nhiều về sự cô đơn. Vài dòng tản mạn dưới đây, người viết bập bẹ diễn giải đôi chút về những khoảnh khắc cô đơn, khi bản thân có một chút trải nghiệm về thực tại ấy.
Trong đời thánh hiến, người tu sĩ có xu hướng che đậy những khoảnh khắc cô đơn, ngại chia sẻ và rất dè dặt khi diễn tả về sự cô đơn trong tâm hồn mình. Họ thường dễ rơi vào cám dỗ giấu kín vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể chúng xuất phát từ tâm lý lo sợ có điều bất lợi xảy ra cho mình, hoặc có thể vì không muốn người khác can dự quá sâu vào đời tư, hoặc đơn giản vì sợ dị nghị, đàm tiếu, khinh khi, cười chê của anh chị em cùng sống Ơn gọi với mình...
Nhiều lúc, người tu rơi vào trạng thái cô đơn. Cô đơn chợt đến khi bóng chiều đã ngả, khi màn đêm bao phủ khắp không gian. Một mình lặng lẽ trong căn phòng bé nhỏ, người tu cảm thấy lẻ loi, hiu quạnh. Cô đơn cả khi ta lang thang trên đường phố, ngắm dòng người qua lại, chợt thấy mình lạc lõng bơ vơ giữa biển người xa lạ. Cô đơn khi gặp khủng hoảng, khi những đòi hỏi của bản năng tự nhiên trỗi dậy khiến thân xác bị nô lệ. Cô đơn khi gặp khổ đau trên đường đời, khi bị hiểu lầm, tranh giành, đố kỵ. Cô đơn sau những thất bại, sau những phút lầm lỡ, yếu hèn và cả những mặc cảm tội lỗi. Và cô đơn còn đến cả sau những giây phút thành công trong sứ vụ, khi nhận được biết bao lời tung hô, chúc tụng... Người thánh hiến nhiều khi vướng vào vòng xoáy của cô đơn, vì đánh mất căn tính đời tu, họ không biết theo Chúa để làm gì? và sống đời dâng hiến ra sao? Đứng trước thế giới bao la, ta thấy mình thật nhỏ bé, hữu hạn. Trong cõi mênh mông của đất trời, ta cần một điểm tựa, để mong thoát khỏi những tù túng, những chật hẹp của cõi lòng... Và như thế, người tu đi tìm câu trả lời để lý giải cho sự cô đơn.
Những khoảng lặng trong tâm hồn đôi khi làm ta cảm thấy sợ hãi. Nỗi trống trải, cô đơn như muốn cuốn ta vào vòng xoáy với những con sóng dữ dội của cuộc đời. Chúng đánh thức tiếng gọi yêu thương của ai đó được chôn kỹ từ lâu trong ký ức. Biết bao sợi nhớ, sợi thương của một thời sinh viên trẻ trung, nhiệt huyết cứ ùa về. Chọn đời tu, đồng nghĩa ta phải chấp nhận sự đơn độc. Cô đơn để thấy mình yếu đuối và bất toàn để chỉ còn trông cậy vào một mình Chúa mà thôi. Sự cô đơn có thể do chính mình gây ra hoặc có thể xuất phát từ ngoại cảnh. Tuy nhiên, chính trong sự riêng tư ấy, ta mới có thể đi sâu hơn vào cõi siêu việt với Đấng tạo thành. Trong chiều kích ấy, sự đơn độc của đời tu lại trở nên quý giá, đưa ta tháp nhập vào tình yêu Thiên Chúa, làm cho đời tu trở nên phong phú và huyền nhiệm hơn. Thành ra, cô đơn bản chất không xấu, không phải là điều bất lợi, nhưng giúp ta khiêm tốn và dịu dàng hơn, nhất là cho cuộc đời hy sinh phục vụ trở nên giá trị. Cô đơn để thấy mình nhỏ bé giữa vũ trụ bao la, như hạt cát giữa sa mạc hoang vu, như giọt nước giữa đại dương, như cánh chim lẻ loi giữa bầu trời mênh mông vô tận.
Chỉ khi ở lại bên Chúa, ta mới dám trải lòng mình ra một cách chân thật không che đậy; để rồi ta khám phá ra rằng, Chúa là tất cả cho cuộc sống của ta, là lý tưởng, là cùng đích cho mọi cố gắng và chọn lựa, là niềm vui được chia sẻ, là nỗi buồn được nâng đỡ ủi an. Ở bên Chúa ta thấy mình có động lực để tiếp tục sống và chiến đấu với những yếu đuối, cám dỗ và tội lỗi của chính bản thân mình. Khi cô đơn ta thấy mình hoàn toàn trống rỗng, và chỉ có Chúa mới lấp đầy khoảng trống trong ta. Chỉ khi ở lại với Ngài và trong Ngài, nỗi khát khao của ta mới hy vọng được thỏa mãn, nỗi cô đơn lúc ấy sẽ nhẹ nhàng như gió thoảng mây ngàn. Khi ta cảm nhận được sự cô đơn cũng có nghĩa là ta đang tập để đón nhận chúng. Tạ ơn Chúa cho ta hiểu giá trị của sự cô đơn, để ta biết quý trọng những giây phút ở lại bên Chúa và ý thức mình thuộc về Chúa.
Tâm Thành
Nguồn: https://giaophanvinhlong.net
Đời sống Thánh hiến được định nghĩa là một cuộc nhập thế giữa lòng đời. Tu sĩ là những con người không thuộc về thế gian, nhưng sống trong thế gian và chịu ảnh hưởng của thế gian. Thế gian ở đây là cộng đồng nhân loại, là tất cả những gì đang diễn ra trong thế giới hôm nay - một thế giới đang chứng kiến những đổi thay đến chóng mặt trên tất cả các lãnh vực của đời sống xã hội. Những thay đổi ấy đang từng ngày từng giờ tác động một cách mạnh mẽ vào đời sống tu trì, nhất là trong lãnh vực đời sống thiêng liêng. Nó mang đến cho đời thánh hiến một làn gió mới, nhưng đồng thời cũng là một thách đố lớn lao đối với những ai đang dấn thân cho lý tưởng tu trì.
Chúng ta biết rằng: đời sống thiêng liêng là linh hồn của đời tu trì, và cầu nguyện là hơi thở của đời sống tâm linh. Vì thế, nếu thiếu vắng cầu nguyện, đời tu sẽ mất hết giá trị và trở nên vô nghĩa. Khi ấy, người sống đời tu không thể trở nên ánh sáng cho trần gian, không thể nên muối ướp mặn cuộc đời và cũng không thể là men trong bột. Do đó, cầu nguyện là chìa khóa vạn năng giúp mở ra chân trời hạnh phúc và khóa lại những điều bất hạnh. Chính vì cầu nguyện quan trọng nên ma quỉ luôn tìm cách len lỏi vào những vị trí trọng yếu nhất, hòng phá đổ đời tu dưới mọi hình thức.
Trước hết, hiệu năng công việc là một cám dỗ dai dẳng và ngọt ngào nhất đối với đời sống thiêng liêng của người Thánh hiến. Thực tế cho thấy: đời sống thiêng liêng đang dần nhường chỗ cho các hoạt động Tông đồ. Giữa một cuộc sống phóng túng và tha hóa, người tu dường như để cho dòng đời cuốn trôi, biến họ trở nên những cỗ máy của công việc. Đi tu là chọn Chúa làm gia nghiệp, nhưng thay vì chọn Chúa, họ lại chọn công việc của Chúa. Vì chọn sai nên nhiều Tu sĩ trẻ bị lâm vào cuộc khủng hoảng Ơn gọi, đặc biệt trong thời gian thi hành sứ mạng Tông đồ. Đó đây không thiếu những Tu sĩ vì ham thành công đã bỏ bê cầu nguyện, ơ hờ khi tham dự Thánh lễ, Kinh Nhật tụng, cũng chẳng mấy thiết tha với việc Nguyện ngắm, Xét mình, lần chuỗi Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, viếng Thánh Thể hay lãnh nhận các Bí tích… Người tu thường rao truyền cho thiên hạ về cầu nguyện, nhưng thực chất chính chúng ta lại chưa sống cầu nguyện. Nhiều Tu sĩ mới chỉ cầu nguyện trong những giờ nhất định mà bỏ quên tinh thần cầu nguyện liên lỉ suốt ngày. Cơn cám dỗ hiệu năng thúc đẩy chúng ta viện cớ này, cớ kia để tự chước chuẩn cho mình những bổn phận thiêng liêng; hoặc chúng ta cầu nguyện một cách nhanh gọn; hoặc dồn tất cả việc thiêng liêng vào những giây phút cuối ngày sau khi thân xác đã mệt mỏi rã rời… Từ đó, những xác tín về đời sống thiêng liêng mờ nhạt dần, rồi Chủ nghĩa dửng dưng thắng thế, người tu dễ dàng quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa, để rồi còn lại sau đó là sự lạnh nhạt, hững hờ.
Đi đôi với cơn cám dỗ của Chủ nghĩa hiệu năng ta còn phải kể đến những thách đố của khuynh hướng hưởng thụ. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời sống tâm linh của mỗi người tu sĩ chúng ta. Thật thế, ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, với sự bùng nổ của phương tiện truyền thông tốc độ cao. Một mặt, nó giúp người tu mở rộng tầm mắt ra thế giới xung quanh, và cho họ tiếp cận với những loại hàng hóa đa dạng về chủng loại và mẫu mã, với đầy đủ các chức năng để giải trí, làm việc… Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển này là làm cho chúng ta dễ dàng rơi vào cơn cám dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ vật chất. Người tu mải mê với các phương tiện mà không còn thiết tha với việc cầu nguyện, không tìm được hứng thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa. Thay vào đó, họ lặng lẽ đi vào vòng xoáy của hưởng thụ vật chất nhằm thỏa mãn những đam mê trần tục của mình.
Bên cạnh đó, thế giới ngày nay có quá nhiều tiếng ồn ào. Sự tĩnh lặng, trầm lắng xem ra vô bổ và xa xỉ đối với nhiều Tu sĩ trẻ. Họ tìm cách giải khuây và bị hấp dẫn bởi nhịp sống sôi động của âm nhạc, quảng cáo, video, truyền thanh, truyền hình. Một cơn lốc mãnh liệt của sự ồn ào xé tan bầu khí thinh lặng của đời tu trì. Người tu thích nói, thích hàn huyên tâm sự, thích trao đổi thông tin với nhau hơn là đi vào sa mạc để gặp gỡ Thiên Chúa. Họ thích tìm niềm vui chóng qua bên ngoài để giải tỏa sau những giờ phút học tập và làm việc căng thẳng hơn là đến với Chúa để được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Nhiều Tu sĩ trẻ ưa thích nhịp sống ồn ào và cảm thấy chán ngán khi phải thinh lặng. Vì thế, thật khó khăn cho việc cầu nguyện khi tâm hồn người tu không hề có một khoảng lặng nào dành cho Thiên Chúa. Sự ồn ào chính là con sâu gặm nhấm đời sống cầu nguyện của người tu trì.
Ngoài ra, xung đột trong đời sống chung cũng là một cám dỗ cho sự thăng tiến đời sống thiêng liêng của người tu trì. Chúng ta biết rằng: đời sống chung chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của đời sống tâm linh. Thực tế cho thấy: trong Cộng đoàn có những trường hợp sống bên nhau, cùng ăn, cùng uống, cùng sinh hoạt với nhau nhưng lại không có được những tương giao cần thiết. Trong Cộng đoàn, một cám dỗ rất lớn là muốn loại trừ những khác biệt, muốn nắn đúc người khác theo hình ảnh của mình, muốn cho mình là khuôn mẫu để người khác phải sống theo. Các thành viên trong Cộng đoàn chưa biết nghe, biết nói, biết hiểu và biết đón nhận vấn đề của nhau, nên những xung khắc, bất hòa, chia rẽ vẫn còn ngự trị. Khi tâm hồn chúng ta bất an, chúng ta khó có thể cầu nguyện sốt sắng được. Do đó, những bất hòa trong Cộng đoàn chính là một thách đố lớn lao trong hành trình tâm linh của người tu trì.
Tuy nhiên, tất cả những vật cản nêu trên đây cũng chỉ là những tác nhân bên ngoài, trở ngại lớn lao và quan trọng hơn cả lại khởi đi từ chính nội tâm mỗi người. Thành ra, Nguyễn Bá Học đã viết: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Quả thế, nguyên nhân làm cho việc cầu nguyện của chúng ta trở nên sa sút khởi đi từ chính cá nhân mỗi người. Người tu nhất là tu sĩ trẻ đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về căn tính. Bởi lẽ, chúng ta biết rằng: Căn tính đời sống thánh hiến là bước theo Chúa Kitô (Sequela Christi), chọn Chúa là người bạn trăm năm để suốt đời chung thủy với Ngài. Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Đời tu hôm qua, hôm nay và muôn thế hệ vẫn là bước theo Chúa Kitô. Do đó, đây là tiêu chuẩn tối hậu của đời Thánh hiến. Thế nhưng, người tu chúng ta nhiều khi lại chưa ý thức rõ ràng căn tính đích thực của mình, chưa thực sự dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thân xác cho Thiên Chúa. Họ chơi vơi giữa dòng đời mà không biết lý tưởng của mình là gì? mình đang theo ai? đang sống thế nào? và phải làm gì để thăng tiến đời sống ấy? Đó chính là những câu hỏi còn đang bỏ ngỏ và cần những lời giải đáp sao cho thấu lý, đạt tình.
Trước hết, để có thể vươn lên trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hãy tập luyện cho mình thái độ kiên trì. Thái độ ấy cần thiết ngay cả khi chúng ta cảm thấy khô khan và lời cầu nguyện của chúng ta không được Thiên Chúa nhận lời. Thành ra, ngoài những giờ phút cầu nguyện chung với Cộng đoàn, chúng ta cần thiết phải tìm cho mình những giây phút cô tịch và an tĩnh. Bởi lẽ, Thiên Chúa không bao giờ phán bảo điều gì ở nơi huyên náo, nhưng chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể lắng nghe tiếng Ngài mà thôi. Do đó, mỗi người hãy năng đến gặp gỡ Chúa trong Thánh Thể, kéo dài các giờ cầu nguyện cá nhân, chuyên cần suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, và dành giờ kiểm điểm đời sống. Chúng ta hãy kiên trì và bắt đầu lại mỗi ngày, nhất là luôn trung thành với thời gian biểu thiêng liêng đã đề ra. Nói như thế không có nghĩa là ta chỉ gặp gỡ Chúa trong những giờ nhất định, nhưng là liên lạc với Ngài mọi lúc mọi nơi: khi vui cũng như khi buồn; khi thành công cũng như khi thất bại; khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi...
Tuy nhiên, để tăng triển trong đời sống thiêng liêng, sự kiên nhẫn không thôi chưa đủ, chúng ta cần thiết phải nhờ đến những vị linh hướng. Họ có thể là các Linh mục, các Bề trên, hoặc những anh chị em đã có kinh nghiệm trong đường tu và đường đời. Giống như Samuel, cậu bé phải cần đến thầy Hêli để có thể nhận ra tiếng Chúa. Thành ra, mỗi chúng ta cũng hãy đặt niềm tin tưởng nơi các vị linh hướng của mình. Nhờ tác động của Thánh Linh, họ sẽ có khả năng nâng đỡ, đồng hành mỗi khi chúng ta gặp thử thách trong Ơn gọi. Đó là đường lối sư phạm thiêng liêng tuyệt vời mà Thiên Chúa tặng ban cho những ai muốn nên nghĩa thiết với Ngài.
Mặt khác, như đã nói ở trên: những xung khắc trong đời sống Cộng đoàn cũng là một vật cản không nhỏ trong hành trình tâm linh. Thành ra, để có thể cầu nguyện sốt sắng, chúng ta hãy khởi đi từ việc thăng tiến đời sống huynh đệ trong Cộng đoàn. Mỗi tu sĩ hãy tập sống tinh thần hiệp nhất, yêu thương để biến Cộng đoàn thành “nơi hạnh phúc, chốn an vui”. Vì chỉ khi tâm hồn bình an, những khúc mắc trong đời tu mới có cơ may được hòa giải. Chúng ta không thể nào cầu nguyện bao lâu chúng ta còn mải mê gặm nhấm những vết thương. Hơn nữa, chúng ta cũng không thể hiệp nhất với Đức Kitô là Đấng vô hình, bao lâu chúng ta chưa hiệp nhất với anh chị em là người sống kề cận bên ta hàng ngày. Do đó, mỗi người hãy biết trân trọng, cảm thông và đón nhận nhau trong sự yêu thương và tha thứ. Khi đó, đời sống huynh đệ không còn là gánh nặng, nhưng lại là đòn bẩy và là nhịp cầu dẫn ta đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Đặc biệt, chúng ta cần ý thức rằng: Chúa Thánh Thần chính là tác giả và là Thầy hướng dẫn chúng ta trong hành trình tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa. Ngài sẽ luôn đồng hành và gia tăng sức mạnh để chúng ta vượt qua những cám dỗ gặp phải trong đời sống thiêng liêng. Điều quan trọng là chúng ta phải sống tinh thần đơn sơ, khiêm nhường và tín thác vào Chúa. Chúng ta cũng hãy biết khơi cạn tâm hồn để tình yêu Chúa lấp đầy cuộc đời chúng ta. Mỗi người hãy biết trở nên những con người trắng tay để chúng ta là không và Thiên Chúa là tất cả.
Điều quan trọng trên hết đòi hỏi mỗi người tu sĩ là phải huấn luyện chính mình để trở thành những tu sĩ trưởng thành. Luật sống chính là "khuôn vàng thước ngọc", là ngọn hải đăng chỉ đường, là lan can che chắn để chúng ta bước đi vững vàng trong Ơn gọi. Dẫu biết rằng: Đời nội tâm và đời hoạt động Tông đồ là hai bánh lái của một con thuyền, nhưng rốt cuộc "đời hoạt động lại chỉ là phần dư dật của đời sống nội tâm" mà thôi. Cũng vậy, công việc của Mátta quan trọng thật, nhưng Đức Giêsu đã khen ngợi Maria, vì cô đã biết chọn phần tốt hơn. Thành ra, chúng ta hãy cố gắng rèn luyện bản thân, can đảm và sáng suốt chọn lựa xem cái gì quan trọng và cần thiết nhất trong cuộc đời. Nếu không, một lúc nào đó, cuộc đời sẽ quay lại để xô đẩy và vùi lấp chúng ta. Để làm được điều đó, mỗi người hãy luôn biết cộng tác với ơn Chúa, gắn bó với Ngài trong cầu nguyện và chiêm niệm. Nhờ đó, dẫu cho thời gian đắp đổi xoay vần, lòng người có thay trắng đổi đen, chúng ta vẫn đứng vững với thái độ “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.
Đôi dòng trên đây là góp nhặt những suy tư, những kinh nghiệm thực tế của bản thân đã từng trải trong đời Thánh hiến. Có thể đó là những kinh nghiệm rất đơn sơ của một người xem ra còn non nớt về đường tu và vắn vỏi về đường đời, nhưng dẫu sao tác giả vẫn hy vọng có thể góp thêm chút hành trang bé nhỏ cho hành trình thiêng liêng của những ai đang rong ruổi trên đường lữ hành. Đây cũng là cơ hội quý giá để mỗi người nhìn lại Ơn gọi của mình, thấy được những mong manh yếu đuối của phận người trong kiếp nhân sinh. Nhờ đó, mỗi người biết luôn gắn chặt đời mình với Thiên Chúa, để nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta có thể tiến về Núi Thánh trong tình yêu, niềm tin và hy vọng.
Tác giả bài viết: Tâm Thành
Nguồn: http://gpbuichu.org
TU SĨ TRẺ HÔM NAY
Sĩ là một đẳng cấp cao trong một lãnh vực nào đó, đã qua quá trình rèn luyện, học tập và nghiên cứu mà người bình thường không có được. Ai đã đạt được cấp sĩ thì làm công việc ở cấp cao, mang tính chuyên sâu, tương ứng với việc làm thầy (giáo sư, kỹ sư…) để dẫn dắt người khác, như bác sĩ, viện sĩ, nghị sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ… Cơ bản là phải có được trình độ và kiến thức sâu rộng về ngành mà người đó theo đuổi.Còn như tu sĩ là người đặc biệt hơn, bản thân họ phải là một người đã qua quá trình tu tập, thấm nhuần những yếu tố linh diệu về tâm linh, nắm giữ được những phương pháp cơ bản về việc tu luyện, cũng như có những kinh nghiệm và kiến thức cao sâu trong việc tu trì, do đó họ có thể dẫn dắt người khác trong lãnh vực tinh thần và tâm linh. Bởi vậy đây là một loại “kẻ sĩ” ngoại hạng, đặc biệt, đòi hỏi nhiều yếu tố, từ tự nhiên lẫn siêu tự nhiên, mà không phải ai muốn cũng đạt được. Theo thống kê trên thế giới có khoảng 1.300.000 tu sĩ nam nữ.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực, đời sống tiện nghi vật chất quá đầy đủ, yếu tố tâm linh ít được chú trọng, nên tu sĩ không còn được người ta quan tâm mấy, không còn được trọng dụng như các bậc sĩ trong các lãnh vực khác. Vì tu sĩ không còn được đề cao trong xã hội, nên vai trò của người tu sĩ ngày nay như bị “chìm xuồng” giữa một thế giới ồn ào, hướng về khoa học vật chất và sự hưởng thụ. Cũng vì vậy, nhiều chông gai và sự thử thách cho các bậc tu sĩ ngày nay thật lớn lao, đồng thời sự biến thái từ bản thân của các tu sĩ cũng đa dạng, đôi khi làm méo mó đi hình ảnh chân chính của người tu sĩ, như những đặc tính và bản chất đích thực của một tu sĩ cần phải có.
BẢN CHẤT CỦA NGƯỜI TU SĨ
Người tu sĩ lấy con người của Đức Giêsu làm hình ảnh để đối chiếu, làm mẫu mực cho mình, vừa mang tính “xuất thế” vừa mang tính “nhập thế”, theo đuổi một sứ mạng là đưa Tin Mừng đến với mọi người. Để làm được việc đó, họ phải là người mẫu mực, vào đời và sống giữa thế gian, tiếp thu nền văn hóa của xã hội, nhưng lại không không thuộc về thế gian – không kể những dòng chiêm niệm.Tu sĩ sống như một triết lý siêu thoát mà lại rất thực tiễn, có mà như không, không mà như có: “Có vợ như không có vợ, Khóc lóc như không khóc, Vui như chẳng vui, Mua sắm như chẳng có gì, Hưởng dùng của cải như chẳng hưởng” (1Cr 7, 29-31), được chuyển dẫn trong nguyên tắc: Chiêm niệm trong hoạt động và hoạt động trong chiêm niệm. Đây là luật quân bình cho loài thụ tạo mang “tinh thần nhập thể” vượt trên mọi sinh vật khác, không chỉ dành riêng cho người đi tu mà còn cần cho mọi người, vì con người có tâm linh nên được tinh thần dẫn dắt chứ không phải bản năng. Trong tinh thần đó, qua các vị ẩn tu xa xưa, các thánh Giáo phụ, Giáo hội đã đúc kết trong ba điều luật, trở thành tôn chỉ (nguyên tắc cơ bản để sống và hoạt động), là kim chỉ nam, trở thành ba điều thề hứa (khấn dòng) cho mọi tu sĩ sống và làm việc.
1-Tinh Thần Nghèo Khó (Thanh bần)
Đây là tinh thần tiên khởi của một người muốn Tận Hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Mục đích là để chế ngự và hướng dẫn mọi dục vọng nơi bản năng con người, thoát khỏi những nô lệ vào sự hưởng thụ trần tục, gỡ bỏ khỏi những dục lạc mà thân xác đòi hỏi, rũ bỏ những ràng buộc tiện nghi vật chất, giải thoát tâm hồn khỏi những mê đắm thế gian, để con người được tự do trong tinh thần, là sự tự do nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho con người.Vì khi con người không còn bị ràng buộc, không bị nô lệ vào những vật dục nơi thân xác, nơi vật chất và thế gian, lúc đó tâm và trí con người mới có khả năng mở ra để đón nhận những chân lý từ trời cao. Lúc này tâm trí mới đủ ánh sáng, đủ khôn ngoan để nhìn nhận và cảm nghiệm được những lẽ huyền nhiệm của nguồn hạnh phúc thật đời này và đời sau. Như Đức Giêsu nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc.16, 13).
Tinh thần này cũng được chú trọng đặc biệt trong Đạo học Á đông, như triết lý Vô Vi của Lão tử trong tinh thần “Vi vô vi, Sự vô sự, Vị vô vị, Đại thiểu vô tiểu, Báo oán dĩ đức”(làm mà không làm, lo mà không lo, nếm mà không mùi, xem lớn như nhỏ, coi nhiều như ít, lấy đức báo oán), trong “Sắc Sắc; Không Không” của nhà Phật… Cũng như trong nhiều học thuyết tâm linh, đạo đức và nhân bản từ đông tây kim cổ, mà đạo đức dân gian chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, được ca tụng trong nếp sống giản dị và thanh khiết. Vì vậy, người tu sĩ cần tu luyện đặc biệt để đạt được tinh thần này qua lời khấn KHÓ NGHÈO, nhưng không chỉ người tu sĩ, mà bất cứ ai cũng cần có tinh thần này mới mong có được sự thăng hóa trong đời sống tinh thần, có được hạnh phúc thật, tìm được cứu cánh cho cuộc đời – do gỡ khỏi nhiều ràng buộc đa đoan cuộc đời, thoát khỏi sự nô lệ những dục vọng, không bị đắm chìm vào vật chất và danh lợi trần thế.
2- Nhân Đức Tuân Phục (vâng lời)
Đức tuân phục là nhân đức tối cần cho người tu sĩ, vì nếu thiếu nó, mọi xáo trộn và lầm lạc sẽ nảy sinh. Mục đích của sự tuân phục là để hãm dẹp và dẫn dắt cái cái Tôi nơi con người, là nguồn của sự thác loạn nơi bản ngã, luôn có khuynh hướng quy chiếu về mình, luôn muốn chiếm đoạt và thống trị người khác, thống trị mọi vật, không chịu sự điều khiển và kiểm soát của bất cứ ai, của bất cứ quy luật nào mà không phải để phục vụ cái Tôi. Đức tuân phục của người tu sĩ hướng tới cùng đích là Thiên Chúa, thông qua Giáo hội và các bề trên. Mở rộng hơn, còn phải tuân phục mọi hoàn cảnh, mọi biến cố, dù hay dù dở, dù tốt dù xấu trong đời sống. Nó chấp nhận được mọi nghịch cảnh xem ra thật vô lý, trong một nội tâm thanh thản, an bình chứ không phải như đầu hàng số phận một cách miễn cưỡng. Từ đó nó biến thành một sức mạnh phi thường trong việc chiến thắng bản thân, không vướng mắc vào khuynh hướng nổi loạn bởi dục vọng nơi vô thức con người. Trong tiểu sử các vị thánh, các ngài đều là những người có đức tuân phục tuyệt đối trong mọi lúc, mọi trường hợp. Đây không phải là sự vâng lời mù quáng như có một số người hiểu, đến nỗi đòi xét lại vấn đề này để “cải thiện” hay hủy bỏ.
Rộng hơn nữa, đức tuân phục này cần có nơi mọi Kytô hữu, không miễn trừ cho bất cứ ai, từ Giáo hoàng cho tới giáo dân. Sự tuân phục khởi đầu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, vì có cùng một bản thể nên có sự hiệp nhất và tuân phục trong nhau một cách tuyệt đối, vì“Ta và Cha là một” (Ga. 10,30), chứ không phải truyền lệnh hay sai khiến như kiểu của con người. Ngôi Hai mặc xác phàm, Người đã tuân phục Chúa Cha và tất cả lề của Thiên Chúa. Noi gương đó, mọi Kytô hữu cũng phải tuân phục như Người đã tuân phục, trong đó có Hội Thánh của Người, ở cả hai phương diện, huyền nhiệm và cơ cấu, “vì tôi từ trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai sai tôi” (Ga 6,38). Không có hay thiếu sự tuân phục này, kể như tự mình tách khỏi một phần hoặc nằm ngoài Hội Thánh, mọi xáo trộn và lầm lạc sẽ nối tiếp, hậu quả là không hoặc khó có thể lãnh được ơn Cứu Chuộc của Đức Kitô. Người ngoài Kytô giáo vẫn có sự tuân phục bằng cách họ bằng lòng chấp nhận một hoàn cảnh, một số phận không thể tránh được, hoặc không may mắc phải. Họ đã làm hết sức mà không đạt được hay không thể tránh được thì đi đến sự chấp nhận nó, tuân phục nó một cách dũng cảm, vì họ đã nhận ra rằng, “Tận nhân lực, tri thiên mệnh”, và biết “Thuận thiên tri thiên mệnh”.Đó là do biết tuân phục quy luật của trời đất, nên họ vẫn có thể tìm được sự bình an và hạnh phúc tự nhiên trong tinh thần và đời sống.
3 - Nhân Đức Trong Sạch (Khiết Tịnh)
Nhân đức trong sạch này có ý nói đến dục tính nơi con người, được thúc đẩy do bản năng truyền sinh, nó thật cuồng nhiệt, nên rất cần được sự thiện hảo soi đường. Người tu sĩ hy sinh và cống hiến việc này cho Thiên Chúa để có thể tùy thuộc cũng như có thể trở nên giống Thiên Chúa một cách hoàn hảo nhất. Nếu để tự nhiên không được chân lý soi sáng, dục vọng dễ đưa con người đến sự buông thả để thỏa mãn ước muốn, dẫn đến sự mê muội khởi phát từ tư tưởng, diễn ra qua những hành động của thân xác, lúc đó linh hồn và thân xác đều có chung một sự ô uế như nhau.Thiên Chúa có sự trọng sạch tuyệt đối, nên không thể tiếp nhận một hoen ố nào, vì vậy muốn được gần gũi và nên giống Người, người tu sĩ cũng phải có sự trong sạch tương xứng, trong tầm mức của con người có thể, lúc đó mới được “Phúc cho ai có lòng thanh sach, vì sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt.4,8). Tư tưởng và ước muốn là cơ sở hội đủ yếu tố để trở nên trong sạch hay không, còn thân xác chỉ là thừa hành, nên căn nguyên của tội ở nơi linh hồn chứ không phải ở thân xác. Vì vậy sự phán xét chính là cái tội trong tư tưởng, như Đức Giêsu đã phán dạy: “Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã ngoại tình với họ trong lòng rồi” (Mt. 5,28). Để hãm dẹp và triệt tiêu tư tưởng này, người tu trì thường áp dụng phương pháp chay tịnh, là cách hữu hiệu nhất để chế ngự dục vọng mạnh nhất nơi con người, sau nhu cầu về ăn uống, để nó không có cơ hội và điều kiện hoành hành.
Có những người nghĩ rằng, nhân đức trong sạch này chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Nhưng không phải vậy, nó cần cho mọi người, ở mỗi bậc sống đều có cách thể hiện khác nhau. Người tu sĩ tuyệt đối không được phép dan díu tính dục bằng bất cứ hình thức nào trong vấn đề phái tính, cả trong tư tưởng lẫn hành động, vì linh hồn và thân xác đã được Thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa cả về mô thể và chất thể. Còn những người ở bậc gia đình, họ đã thuộc về Thiên Chúa khi được Thánh hiến qua bí tích rửa tội, nay lại được thánh hóa trong bí tích hôn phối, nên một mặt họ thuộc về người bạn phối ngẫu, mặt khác họ thuộc về Thiên Chúa trong sứ mạng cao cả là yêu thương và sinh sản con cái, cộng tác vào sự sáng tạo của Người. Vì vậy họ cũng phải có đức trong sạch qua sự tiết chế tính dục, trong sự trung thành tuyệt đối với bạn phối ngẫu của mình, không có vấn đề ly dị trong bất cứ trường hợp nào, ngay cả ngoại tình trong tư tưởng cũng là một trọng tội, vì: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”(Mc. 9).
*Tu sĩ ngày nay gặp nhiều thử thách rất lớn lao, do đà tiến của xã hội, ít nhất ở mấy điểm như sau:
1-Tiện nghi vật chất và sự tha hóa trong tinh thần
Khoa học kỹ thuật ngày nay tiến bộ vượt bực, đời sống được cải thiện và nâng cao, mọi người gần như được thỏa mãn trong lối sống tiện nghi vật chất, trở nên một thói quen hưởng thụ, nó biến thành nhu cầu gắn bó với con người như máu huyết, như một lẽ sống không thể thiếu trong cuộc sống. Vì vậy để rũ bỏ hay tách sự thụ hưởng ra khỏi đời sống xem ra có vẻ như là một điều lập dị, khác người, thậm chí có người còn cho những người có đời sống giản dị, từ chối tiện nghi vật chất và sự giải trí là bệnh hoạn, là bất bình thường. Với thói quen và lối tư duy thiên về khoa học vật chất, đã ảnh hưởng rất lớn ngay từ trong gia đình cho đến văn hóa xã hội, khiến cho tinh thần và đời sống của người tu sĩ cũng bị chao đảo và biến động. Người tu sĩ chân chính như thấy mình bơi ngược dòng sông, nên dễ thấy mệt mỏi, cảm thấy bị lạc loài, có khi thấy như có một sức mạnh vô hình đè nén tâm trí, cảm thấy ê chề và bất lực trong nội tâm, chỉ muốn buông trôi. Trong khi đó, tổ chức xã hội cũng không trọng dụng những tu sĩ theo như phải cần và đáng được như vậy, cộng với sự hững hờ của con người xã hội, trong lối giao lưu, qua sự tiếp xúc trong sứ vụ tông đồ, khi giúp đời và mang Tin Mừng đến cho mọi người.
Song song với đời sống hướng về thực dụng, tiện nghi và sự hưởng thụ, là sự tha hóa về tinh thần, đặc biệt với vấn đề tâm linh, bị xuống cấp trầm trọng. Con người ngày nay có xu thế định hướng theo cách “duy lý” trong mọi sinh hoạt và tổ chức xã hội, nên muốn giảm bớt hay loại trừ những yếu tố thuộc tâm linh, để cho công việc được hiệu quả và đắc dụng, là những thứ mà con người có vẻ hài lòng, thông qua những hình thức trần tục mà mọi người có thể cảm thấy và chiêm ngắm được nó trong mọi sự vật, sự việc. Đây được gọi là sự tục hóa đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Cũng từ đó, vấn đề thánh thiêng, huyền nhiệm trong Thánh Kinh, trong Hội Thánh, trong các bí tích, trong ân sủng và trong tín lý, tất cả được giản lược cho dễ hiểu, và nó trở thành thứ yếu, không còn là nòng cốt trong việc giữ và thực hành việc đạo đức nữa, và việc giữ đạo chỉ còn là cái vỏ theo thói quen mà thôi. Người tu sĩ cũng ảnh hưởng sự tha hóa này ngay từ trong gia đình, nên khi chọn lựa ở bậc sống này cũng khó thoát khỏi những tư duy duy lý và duy thực trong đời sống tu trì, đã được gieo mầm từ trong gia đình và xã hội . Đây là sự thử thách đáng kể phải vượt qua cho những tu sĩ trẻ ngày nay.
2- Sự quyến rũ của thế gian và xác thịt
Những tình yêu thuộc về thế gian, như ái tình, danh vọng, quyền thế, tiền bạc… lên ngôi, trở nên mục tiêu của mọi người trong xã hội, nó ảnh hưởng trầm trọng đến ngay cả trong bậc sống tu trì, đến nỗi chức linh mục cũng trở thành một danh vọng hấp dẫn cho người theo đuổi. Nó có thể đi vào cái vòng xoáy của mê hồn trận, trong một ước muốn tiềm tàng, tuy đây chỉ là mặt trái của lý tưởng tu trì: đi tu để làm linh mục, làm linh mục để có danh vọng (danh giá), để được quyền thế, để thoát cảnh nghèo hèn, để cho mọi người ngưỡng mộ, để có thể “làm cha thiên hạ”, để được “làm quan” cả đời… Nên người tu sĩ tất nhiên phải loại trừ ngay những tư tưởng yêu thế gian này trước tiên, nhưng lại là sự chiến đấu kiên cường và là một thách đố cho bản thân giữa thế giới ngày nay. Trong thực tế, có tu sĩ khi biết mình không được làm linh mục liền xin tháo lời khấn và hồi tục.
Một sự từ bỏ lớn lao khác cho tu sĩ là phải hy sinh tình yêu đôi lứa để hướng tới và dành nó cho Thiên Chúa, cho tha nhân. Nguyên trong tính dục yêu đương, là một bản năng mạnh mẽ nhất, giúp con người lưu truyền nòi giống qua bản năng sinh tồn, trong đó còn để thực thi thiên chức làm cha và làm mẹ mà Thiên Chúa đã phú bẩm nơi con người. Nhưng trong thế giới ngày nay, chủ nghĩa tự do và lãng mạn đang ngự trị, dục tính yêu đương được đề cao bằng đủ hình thức, từ những phong cách yêu đương thoải mái, từ trong cách sống, thời trang, mà sắc đẹp đứng ở vị trí cao nhất, nên việc phô diễn thân thể của phụ nữ được xem là ưu tiên, vì người ta quan niệm rằng, có thân hính đẹp mà không biết khoe ra là dại dột, là uổng phí. Vì vậy bản năng tính dục có cơ hội phát triển và hoành hành nơi con người ngày nay, ngay cả trẻ em cũng được làm quen với tính dục qua cách ăn diện, qua lời nói và cử chỉ vuốt ve thông qua những việc làm của người lớn, nhất là qua hình ảnh và ngôn ngữ quảng cáo trên truyền hình, trong phim truyện của điện ảnh, đặc biệt là trên internet ở những trang Web đen. Những vấn đề sắc dục này trở nên bình thường và tự do phát triển trong xã hội ngày nay, khó xác định được một lằn ranh như xã hội truyền thống trước đây. Đứng trước vấn đề này, người tu sĩ trẻ cũng có những lần bị chao đảo nơi tâm hồn và thể lý, nên họ phải điều chỉnh để lấy lại quân bình trong trong tâm sinh lý, quân bình trong nhận thức và phán đoán. Người tu sĩ luôn định hướng cho việc tu trì của mình, luyện tập ý chí, củng cố nghị lực để hướng tất cả tình yêu vào Thiên Chúa và tha nhân, nhất là luôn tiếp nhận ân sủng từ Thiên Chúa cho linh hồn bằng việc thực thi nguyên tắc: chiêm niệm (cầu nguyện) trong hoạt động và hoạt động trong chiêm niệm. Nhờ vậy nhiều tu sĩ ngày nay mới có thể đứng vững trước bao tà khí vây hãm của thế gian và xác thịt. Nhưng đây quả là sự chiến đấu can trường của tu sĩ trong thế giới hôm nay.
3- Chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh
Trong giáo dục con người ngày nay, trình độ tri thức được tiếp thu và phát triển tối đa, tính độc lâp được khích lệ và vun đắp tích cực, vì vậy tính cá nhân được nảy nở, hướng tới sự chứng tỏ bản thân thật rõ nét, có nhiều sáng tạo, nhiều khi thật táo bạo. Xem ra đây là sự tích cực trong việc giáo dục để hình thành một nhân cách trưởng thành. Nếu chỉ như thế thì chẳng có gì cần xem xét, nhưng đàng sau của nó lại có cái nguy cơ làm cho tinh thần độc lập bị biến tính, trở thành môi trường nuôi dưỡng cái “bản ngã”, làm nó trở mên kiên định để làm bệ phóng cho mọi tư tưởng và hành động xuất phát từ cái Tôi cố hữu này. Người ta dễ nhầm tưởng đây là người có cá tính như thường được khen ngợi, mang chất cá nhân độc đáo theo tính khí của một người, để họ trở thành chính mình chứ không là ai khác. Còn nặng tính cá nhân lại không như thế, họ lấy chính mình làm cơ sở, làm gốc để bắt mọi sự tùy thuộc theo như khuôn mẫu của mình. Đây là đặc tính của “chủ nghĩa cá nhân” mà các nhà nghiên cứu về xã hội đã đúc kết bằng thuật ngữ này, họ luôn luôn biểu lộ mạnh mẽ để chứng tỏ mình, chỉ chấp nhận ai như mình mà bất chấp những ai không giống mình, cũng như luôn củng cố vào những suy nghĩ hay quan điểm và việc làm của chính mình, chứ không muốn cậy nhờ vào người khác.
Người tu sĩ ngày nay vấp phải gò núi của chủ nghĩa cá nhân không phải là nhỏ, nó diễn biến ở hai phương diện. một mặt về phía bản thân, mặt khác ở phương diện làm việc tông đồ trong sự giáo dục nhân bản và đức tin Kytô giáo cho người khác.
Về phía bản thân, như trình bày trên, cá nhân chủ nghĩa thấm nhiễm một cách tiệm tiếm nơi mọi người sống trong thời đại hôm nay, mà con người ít khi chú trọng đến nó. Bởi vậy nơi môi trường sống và làm việc trong cộng đoàn, sự chịu đựng giữa những anh chị em với nhau trở nên khá khắc nghiệt, gây nhiều đau khổ cho nhau mà vô tình không nhận thức được điều đó, vì mỗi người đều nhìn người khác theo cái Tôi đã được định hình như căn tính cố hữu của mình, chứ không có cái nhìn bằng con mắt của Thiên Chúa. Ngay cả đối với bề trên, tính cá nhân vẫn luôn muốn chỗi dậy, bằng hình thức trao đổi, bàn luận, ý kiến, chất vấn hoặc đối kháng qua hình thức bất bạo động – bất tuân trong tư tưởng, thụ động trong việc làm. Bởi vậy có những tu sinh bỏ tu, tu sĩ xuất dòng vì lý do không thể chịu đựng được anh chị em khác khi sống và làm việc, hoặc chỉ vì đòi bề trên phải hiểu mình mà không được như ý muốn. Như Đức Tổng Giám Mục José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký Bộ các dòng tu, cho biết mỗi năm có hơn 3 ngàn tu sĩ nam nữ trên thế giới xin tháo lời khấn trọn đời.
Về phương diện làm tông đồ và giáo dục, tu sĩ vấp phải “tảng băng” từ những người tiếp nhận, hoặc người thụ huấn. Tính (chủ nghĩa) cá nhân của họ nảy sinh vấn đề cố chấp, quá bảo thủ, quá cấp tiến, tương đối hóa chân lý, xét lại vấn đề, đặt vấn đề, kiểm chứng, phản biện… Trong khi đó, người giảng huấn vẫn phải mềm mỏng trong tình thần đại lượng bao dung, nên luôn phải khắc phục bản thân trong những lúc cảm thấy mệt mỏi và ê chề. Thách đố này dễ đưa đến sự ngao ngán trong việc thi hành sứ vụ tông đồ. Lúc này duy chỉ còn tình yêu Thiên Chúa mới là nguồn an ủi lấp đầy khoảng trống nơi tâm hồn “người được sai đi” mà thôi.
LỜI KẾT
Tu sĩ trẻ trong thế giới hôm nay có nhiều thuận lợi bởi vì có điều kiện học hỏi và nghiên cứu chuyên sâu, có nhiều phương pháp linh thao để tu dưỡng, bén nhạy và dễ thích nghi trong thế giới đầy biến động, có nhiều phương tiện vật chất hiện đại hỗ trợ khi thi hành sứ vụ tông đồ, như cơ sở vật chất, truyền thông, internet… Nhưng lại phải đối diện với nhiều thử thách trong thế giới luôn bị động và biến chuyển, từ nội tâm mỗi người cho đến những tổ chức xã hội, cũng như trong cộng đoàn tôn giáo lại có nhiều vấn nạn nảy sinh.
Cái chung nhất của sự khó khăn cho bậc tu sĩ có lẽ là thế giới hôm nay đang tụt dốc về tinh thần và tâm linh một cách thê thảm nhất. Xu thế nhân loại như muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, họ như thấy Thiên Chúa chỉ làm cản đường thăng tiến của con người, làm mất tự do cho cuộc sống. Mặt khác họ muốn được canh tân qua những điều mới lạ, dễ dãi, bằng cách sáng tạo ra những lý thuyết hấp dẫn hơn, hợp lý hơn, hoặc họ muốn phục hồi lại những lạc thuyết đã giãy chết từ lâu. Tất cả như muốn làm cuộc cách mạng cho những ý đồ riêng, từ cá nhân cho đến những tổ chức xã hội và tôn giáo. Người ta khó có thể thống kê về giáo phái mới trên thế giới, nhưng chắc chắn nó phải lên đến nhiều ngàn, trong đó hầu hết đều mang tính kỳ bí, quái lạ, phi nhân bản. Người tu sĩ hôm nay phải chịu đựng và đương đầu với tất cả, nhất là những tu sĩ trẻ như đang phải đứng đầu chiến tuyến để vun trồng, bảo vệ và chiến đấu, dọn lại từng mảnh đất cho chân lý Nước Trời được gieo vãi, cho Đức Kytô ngự trị.
Phải đối diện với muôn vàn cam go và thách đố như mỗi ngày được nhân lên, nhưng nhờ vậy mà những điểm son của tu sĩ hôm nay càng được rạng sáng và mang dấu ấn anh hùng. Miệng các người đã ngậm đầy Thánh Thần của Thiên Chúa để thổi hơi lửa bừng cháy giữa những tâm hồn tối tăm, đã mặc lấy áo giáp của Tổng Thần Micae, rút gươm xông pha giữa trận tuyến để bảo vệ chính mình cùng con cái Thiên Chúa cho hôm nay và ngày mai. Vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy không còn sai lầm và tăm tối.
Xin tặng những bạn trẻ đang tìm hiểu ơn gọi tu dòng.
St: Phê-rô Nguyễn Minh Thắng, OH
Nguồn: dongten.net 14.07.2016
Hàn Cư Sĩ, S.J
Page 17 of 19