Trong bài “Những yếu tố làm nên người tu sĩ thừa sai thời @” đã đăng trong Nội san Ra khơi số 4, có nhắc đến: căn tính thừa sai và tính cấp thiết của việc đào tạo nhà thừa sai, để trở thành một Marketing của “Lời” trong xã hội thời @ (1) .

Trong bài viết này, người viết cũng muốn tiếp tục dòng suy tư đó khi bàn đến vai trò của người huấn luyện, sứ mạng và hướng đích của nhà đào tạo.

Dẫu biết rằng, công việc đào tạo chính yếu là của Chúa Thánh Thần, chúng ta chỉ là những người cộng tác viên vào công trình đó mà thôi. Mặt khác, mang trong mình những yếu đuối của con người, nhiều khi chúng ta ngại nói đến, hay không dám đảm nhận vai trò cao quý này.

Khi đặt bút viết về đề tài này, chính tác giả cũng cảm thấy e ngại và xấu hổ khi biết bao điều căn bản mình chưa hoàn thiện. Kinh nghiệm chẳng là bao. Học hành còn hạn chế. Ấy vậy mà dám viết về một đề tài lẽ ra phải dành cho những vị lão luyện, có bề dày kinh nghiệm trong lãnh vực đời tu cũng như huấn luyện. Nhưng thiết nghĩ, phải chăng đây chính là dịp để đương sự cảm thông, chia sẻ với gánh nặng của những nhà đào tạo đã, đang và sẽ kề vai gánh vác công việc vừa cao quý và cũng đầy chông gai này.

  1. Vai trò của người huấn luyện

Những người lãnh trách vụ đào tạo là những người được bề trên tín nhiệm trao phó cho công việc này cách thận trọng. Làm sao để việc đào tạo luôn thể hiện được sự hiệp thông và cộng tác với nhóm đào tạo. Quí ơn gọi và thương ứng sinh với con tim mục tử. Làm cho ứng sinh thấy sức hấp dẫn của ơn gọi và khích lệ ứng sinh chấp nhận những đòi hỏi của ơn gọi (2). Vì thế, họ là những người phải định hướng công cuộc đào tạo của họ cũng như những người thụ huấn theo ý muốn của Thiên Chúa, theo giáo huấn của Giáo Hội, theo đặc sủng và linh đạo riêng, cũng như sứ mệnh tông đồ mà Hội dòng, Tu đoàn, Tu hội của mình nhắm tới. Đây là một công việc rất khó khăn.

1.1. Những khó khăn của nhà đào tạo

Trong vai trò của người đào tạo, chúng ta đều cảm thấy ngèn ngẹn trong cổ họng, vì có những kết quả ngọt ngào, an ủi. Nhưng cũng có những kỷ niệm chua chát, đắng cay đến nặng lòng. Bởi vì thế hệ trẻ ngày hôm nay khác trước kia rất nhiều.

Nếu trước kia, các tu sĩ hoàn toàn phó thác mọi sự cho Chúa trong tay bề trên, luôn coi ý bề trên là ý Chúa. Sống thật thà đơn sơ với ý ngay lành. Họ luôn ý thức căn tính của mình sẽ là tu sĩ hay linh mục, đồng thời cũng chuẩn bị cho xứng đáng với những danh hiệu, địa vị mà họ sẽ đảm nhận trong tương lai. Thì, ngày nay lại không phải vậy! Dẫu vẫn có những yếu tố đó. Ngày nay, mặt bằng về tri thức có thể hơn hẳn trước kia, sự hiểu biết sâu rộng nhờ vào những phương tiện bổ trợ đã làm cho người tu sĩ trẻ hôm nay nắm bắt được những ưu thế và tinh tế trong những đổi thay của xã hội cũng như khoa học…, nhưng về chiều sâu đạo đức, kính trên nhường dưới, sống đức ái, thật thà, và ý hướng ngay lành (tức là tâm tu), thì thua xa các bậc cha anh, tiền bối của họ.

Nếu trước kia, người tu sĩ không hề đòi hỏi, thận trọng trong mọi việc, hoàn toàn sống vì Chúa, cho Chúa và trong Chúa. Chuyên lo phụng thờ Chúa và cứu các linh hồn. Coi thầy dạy như là người chỉ đường dẫn lối, họ rất đề cao tinh thần “Tôn sư trọng đạo”. Thì ngày nay, ngược lại, người tu sĩ luôn đòi hỏi, thiếu kinh nghiệm trưởng thành, dòn mỏng và hay bị virus của xã hội hưởng thụ, tiền bạc, tình dục cuốn hút và đánh gục. Những gợi ý của thày dạy, họ luôn coi là lỗi thời và không hiểu họ. Nhiều khi họ cho là “Tự nhiên biết” mà không cần người khác hướng dẫn. Nếu không phản đối được, họ nín thở một mạch cho qua cầu, và, khi có cơ hội, họ sẵn sàng bùng lên chống đối, hoặc qua cầu rút ván. Đây chính là điểm khó khăn cho các nhà đào tạo vì sự khoảng cách về thế hệ, mô hình và tâm thức. Hơn nữa, nhà đào tạo thời nay cảm thấy khó khăn hơn rất nhiều khi đảm nhận vai trò đồng hành, cảm thông và chia sẻ. Nói rõ ra là một phương pháp “Thương lượng”, trong khi người tu sĩ trẻ lại muốn khẳng định mình.

Nhưng điều mà các nhà đào tạo ngày nay cảm thấy “Gai góc” hơn bao giờ hết có lẽ là vấn đề luân lý của các Ứng sinh. Điển hình như: đồng tính; nghiện rượu, bia; và, không thật. Một trong ba vấn nạn trên được coi là không phù hợp với bản tính của người tu sĩ ngay từ đầu đó là đồng tính. Tâm bệnh này, nó đi ngược lại với ý định ban đầu của Thiên Chúa trong vấn đề thiết lập hôn nhân, cũng vậy, đương nhiên nó hoàn toàn không phù hợp với ơn gọi tu trì. Và lẽ dĩ nhiên, các ngài không thể thâu nhận những trường hợp này vào trong cộng đoàn tu trì. Còn hai vấn nạn sau là nghiện rượu, bia và không thật mới là điều đáng quan tâm. Người nghiện rượu, bia! Họ là những người bị ma men tiêu khiển, khi phải chọn lựa, họ không đủ ý thức để “Chọn sao cho trọn”. Tức là họ luôn bị lệ thuộc vào sự kích thích của rượu bia. Công việc học hành, kinh sách và các việc khác mà nhà dòng trao phó, họ không đủ tư cách và tự chủ để thi hành. Còn trường hợp không thật! Họ luôn sống như người bắt cá hai tay. Vừa muốn đi tu, lại vừa muốn yêu đương đàn đúm. Vừa cùng lúc ở dòng này lại cũng muốn ở dòng kia. Vừa muốn dòng Việt lại cũng muốn dòng Tây. Khi phải trao đổi về đời sống và tu đức, họ là những người nói hay, nhưng làm dở. Tức là, họ không thật với lương tâm và không có chọn lựa căn bản.

Khi nhà đào tạo gặp phải trên hành trình huấn luyện những trường hợp trên, các ngài một mặt luôn làm toát lên khuôn mặt của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành: Ngài đến để cứu chữa những tâm hồn tội lỗi và sẵn lòng tha thứ khi những người tội lỗi có lòng thống hối ăn năn. Nhưng đồng thời cũng luôn là nhà lãnh đạo cương quyết, một nhà hướng đạo dẫn lối và vạch ra cho đương sự những con đường phù hợp, để họ không bị nhầm lẫn và hoang tưởng trong chính đời tu mà họ đang theo đuổi. Đức Giêsu có những lúc Ngài cũng phải quát mắng Phêrô là “Satan”, cũng bện dây thành roi để đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ. Vì tất cả những tư tưởng và hành vi đó không phù hợp với ý định và công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì vậy, khi đã cố gắng hết sức, các ngài cũng phải cương quyết một lần để có lợi cho cả đôi bên. Đến đây, tưởng cũng nên nhắc lại chia sẻ của một cha giáo luân lý tại một học viện, ngài chia sẻ: “Vào dịp gặp gỡ tất cả các Bề trên, Giám đốc Chủng Viện và các cha Linh hướng của các nước Châu á tại Thái Lan, các vị đều đồng quyết những trường hợp sau là không thể đào tạo được, đó là: đồng tính, nghiện rượu, bia và không thật. Bởi vì, đồng tính là chống lại kế hoạch của Thiên Chúa. Nghiện rượu bia làm cho đời sống của tu sĩ trở nên tầm thường và không có niềm hy vọng. Còn không thật thì chẳng biết thế nào mà hướng dẫn. Vì thế, những người có trách nhiệm trong việc đào tạo phải liệu sao cho đương sự nhận ra bản chất của họ và giúp họ định hướng tương lai càng sớm càng tốt” (3) .

Như vậy, công việc đào tạo quả là một công việc quá khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ, đây là công việc đòi hỏi nhà đào tạo phải có tính gan lì, cam đảm, trung thành và dấn thân. Bởi vì, trong công cuộc đào tạo một con người sống động, luôn đòi hỏi có tính lâu dài, trường kỳ, và phải được kết hợp từ nhiều phía và nhiều người. Như thế, trong tiến trình này, nhà đào tạo không tự mình làm việc cách đơn độc, luôn sống trong tinh thần cởi mở và thâu nhận cũng như trân quý những góp ý của các bậc đàn anh, của những anh chị em đang cùng kề vai sát cánh với mình trong vai trò đào tạo, và đôi khi chính những học trò mà mình đang có trách vụ đào tạo cũng là thầy của ta nữa, khi những chia sẻ của họ có ích cho đời sống tâm linh của ta và cộng đoàn. Tuy nhiên, công việc này trước tiên là công việc của chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Và có Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ đồng hành: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Chính Người mới là nhà đào tạo đích thực, hướng công việc của những người đồng hành về Đức Giêsu – Ngài là vị Tôn Sư mô phạm cho nhà đào tạo noi theo. Suốt cuộc đời của Ngài là một hành trình trở về và hướng tha. Trở về với Chúa Cha và trung thành với ý định của Cha mình. Hướng tha để đến với mọi người, nhất là người nghèo, bị bỏ rơi và bất hạnh.

1.2. Sứ mạng của nhà đào tạo

“Làm sao họ tin Đấng họ không nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10, 14). Thánh Phaolô đã nói như thế trong thư gửi Giáo đoàn Rôma. Trong việc huấn luyện đời tu cũng vậy. Nhà huấn luyện chính là người hướng dẫn, rao giảng và giới thiệu cho môn sinh của mình về một người THẦY lý tưởng là chính Đức Giêsu. Một Đức Giêsu hết lòng bao dung, nhân hậu. Một đức Giêsu sinh ra, lớn lên, giảng đạo, chết và phục sinh chỉ vì “Yêu”. Bên cạnh đó, nhà đào tạo còn hướng dẫn và giúp cho đương sự khám phá, định hướng và cảm nghiệm căn tính của họ. Làm sao để các bạn trẻ khi bước vào và dấn thân cho sứ vụ, họ phải hiểu rõ về họ, xác định thật rõ và cảm nghiệm thật thâm sâu về ơn gọi mà họ đang xây dựng cũng như theo đuổi. Ngoài ra, nhà đào tạo cũng giúp cho đương sự nhận ra ơn gọi của họ đến từ Chúa. Chính Chúa gọi và chọn họ: “Trước khi ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân” (Gr 1, 4). Ngài cũng mời gọi “Hãy theo Thầy” và bước đi trên chính con đường mà Ngài đã đi.

Hơn nữa, nhà huấn luyện luôn thôi thúc và giúp cho họ ý thức mình là người được sai đi để nối tiếp công việc của Chúa Giêsu trong những việc tông đồ chuyên biệt, đặc thù của chính Hội dòng, Tu đoàn, Tu hội mà người trẻ đó đang theo đuổi. Được như thế, nhà huấn luyện sẽ giúp cho các ứng sinh chuyển tất cả những tư tưởng đơn sơ ban đầu tới chỗ hiện thực hóa một ơn gọi lý tưởng (4). Sứ mạng của người huấn luyện luôn nhằm cung cấp những người thợ lành nghề cho vườn nho của Chúa, những ngư phủ có khả năng ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá. Công việc này là một chuỗi mắt xích móc nối với nhau, lâu dài. Vì thế, đòi hỏi một sự nghiêm túc và một sự khổ hạnh nào đó (5).

Như vậy, người huấn luyện cần phải có một tâm hồn đào tạo yêu người và yêu nghề. Giống như Chúa Giêsu: cứu giúp người chứ không loại bỏ người, có cắt tỉa là để sinh nhiều hoa trái hơn: tha thứ lỗi lầm, nâng đỡ đứng dậy, giúp bền vững tiến lên, tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai… Nếu nhà đào tạo không có tâm thì chẳng khác gì cái phèng la inh ỏi điếc tai người nghe. Vì thế: “Một người dạy học tốt (có trình độ và bằng cấp chuyên môn cao) không hẳn là một nhà đào tạo tốt. Nhưng một nhà đào tạo dày kinh nghiệm có thể đồng thời cũng là một người dạy học tốt. Công việc đào tạo là một nghệ thuật, và là một ơn ban của Chúa, đòi hỏi những khả năng tự nhiên và những khả năng sư phạm thủ đắc nhờ kinh nghiệm và học hỏi liên tục” (6).

Như vậy, ngoài việc đi tiên phong về tri thức, đạo đức và kinh nghiệm, nhà huấn luyện còn phải lo sao cho người mà mình có trách nhiệm huấn luyện cảm thấy vui tươi và triển nở khi sống trung tín với sứ mạng họ sẽ được trao sau này (7).

Huấn luyện người tu sĩ là cộng tác với Thiên Chúa và với chính người ấy để làm một công trình lớn. Công trình đào tạo những con người sống động để họ trở nên những nhà truyền giáo trên cánh đồng của Giáo Hội và cũng có thể trở nên những người huấn luyện cho những người khác về sứ mạng này trong tương lai. Mặt khác, cũng giúp cho người được huấn luyện biết họ là ai, hầu trở thành người tu sĩ quân bình và bền vững qua mọi tình huống đời sống và sứ vụ, đồng thời xác định việc chọn lựa để trở thành tu sĩ đích thực phải hoàn toàn tự do và trung thành.

  1. Đào tạo mỗi người biết tự do lựa chọn (8)

Để trở thành một tu sĩ chính hiệu, đòi hỏi một sự chọn lựa đầy cam go, đi ngược lại với những gì con người và và xã hội theo đuổi. Vì thế, cần một sự hy sinh và từ bỏ cao độ. Đồng thời khi thi hành sứ vụ, đinh sắt, lưỡi đòng, mão gai và thập giá luôn luôn là “Bạn”. Còn phần thưởng là dấm chua, mật đắng…Một cuộc sống khắc khổ như thế, không ai bắt buộc và áp đặt trên người được sai đi. Tiên vàn họ phải có sự chọn lựa trong tự do.

Quả thật, khi đã chọn, họ phải chịu trách nhiệm trên những lựa chọn của mình. Theo Karl Rahner thì: “Biết mình cách triệt để và diễn tả mình cách trọn vẹn” (9). Trong việc huấn luyện người người trẻ để trở thành nhà tu sĩ cũng vậy. Các ngài phải giúp cho Ứng sinh hiểu thật rõ về mình, đồng thời phát huy những đức tính tốt. Cũng thế, nhà đào tạo phải làm sao cho người được thụ huấn cảm nghiệm được ơn gọi và sứ mạng của họ đến từ Chúa, và sứ mạng mà họ đón nhận là lệnh truyền.

Nhưng để cho lời mời gọi hay lệnh truyền đó trở nên cao quý, người tu sĩ phải thực sự tự do đón nhận sứ mạng đó trong ý thức và trách nhiệm (10) .

Chính Đức Giêsu là mẫu gương cho sự chọn lựa trong tự do. Ngài đã ý thức rõ rệt sứ vụ cứu độ, con đường khổ giá và cái chết đau thương mà Ngài phải đảm nhận. Nhưng vì yêu thương nhân loại Ngài đã tự nguyện chấp nhận tất cả. Chúng ta không thể quên lời tuyên bố thời danh biểu lộ sự tự do tuyệt đối của Ngài trước cái chết: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh, và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18).

Khi đã giúp cho họ chọn lựa trong tự do, nhà đào tạo tiếp tục giúp cho các bạn trẻ biết lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm động lực cho công cuộc này: “Thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức ái mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13).

  1. Nhà đào tạo được ví như người nông dân

Thiết nghĩ, nhà đào tạo thời nay được ví như bác nông dân và việc đào tạo được ví như việc gieo trồng.

Khi bắt tay vào việc, trước tiên, điều mà người nông dân cần là: “Cày”. Cày là điều mà người nông dân cần phải làm khi bắt đầu gieo trồng. Nhà tào tạo cũng vậy. Điều đầu tiên phải làm là “Cày”. Cày ở đây chính là việc đi thăm và tìm hiểu từng gia đình và hoàn cảnh của từng em mà họ sẽ có trách nhiệm thụ huấn trong tương lai. Tìm hiểu không phải để biết rồi khinh thị hay phân biệt. Nhưng tìm hiểu để biết được gia cảnh của từng em hầu biết được lịch sử hình thành tâm tính và quan điểm để cảm thông, chia sẻ và đồng hành đúng hướng. Rồi sau đó mới nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.

Nhất “Nước”: để khởi sự cho việc gieo trồng, nước là yếu tố quan trọng nhất. Nếu không có nước, sẽ rất khó khăn cho việc cày bừa, và lẽ đương nhiên không thể làm những khâu tiếp theo. Nhà đào tạo cũng vậy. Như đã nói, điều đầu tiên nhà đào tạo cần làm là tìm hiểu gia cảnh của từng em để đồng hành, thì việc thứ hai là phải làm là “Cầu nguyện”. Nếu không có đời sống cầu nguyện, họ chính là những người đánh trống bỏ dùi. Nếu cá cần nước để sống; cành cây cần nhựa từ thân truyền sang thế nào, thì đời sống cầu nguyện của nhà đào tạo cũng như vậy. Suốt ngày sống của họ phải là người ngụp lặn trong đời sống cầu nguyện. Có thế, họ mới yêu thương, hy sinh và từ bỏ vì người khác. Khi cầu nguyện, họ ý thức được giới hạn của mình và cần đến ơn Chúa trợ giúp. Khi cầu nguyện, họ mới quy chiếu công việc của họ vào quyền năng của Chúa. Khi cầu nguyện, họ dâng tất cả những người được trao phó cho họ lên Chúa. Và, khi cầu nguyện, họ thấy tâm hồn an vui, thanh thoát. Sẵn sàng quy chiếu thành công, thất bại của mình lên Chúa và an vui với kết quả đạt được. Có đời sống cầu nguyện, họ sẽ sống cuộc sống thân tình với Chúa. Đón nhận được ý Chúa và chuyển tải thánh ý của Chúa cho người thụ huấn cách chính truyền. Nếu không, họ sẽ làm theo ý của họ và hướng dẫn người khác theo kiểu khôn ngoan, mánh lới thế gian.

Nhì “Phân”: phân là yếu tố quan trọng trong tiến trình sinh trưởng của cây lúa. Nhưng nếu không biết chăm bón hợp lý thì chính phân bón làm cho mất mùa. Dư thừa phân sẽ làm cho lúa “Lốp”, và, lẽ đương nhiên là mất mùa. Người nông dân giỏi là người biết phân lô, be bờ, để nước chảy đều và phân tỏa lan khắp ruộng cách đồng đều. Khi đã có nước, có ruộng và trồng được lúa. Người nông dân phải bón phân, phun thuốc để cây lúa được lớn nhanh, không bị sâu bọ rúc tỉa…cũng thế, nhà đào tạo khi đã kết hiệp với Chúa trong đời sống cầu nguyện, thì cũng cần phải có một động lực để thực thi những gì mình đã đón nhận được qua sự kết hiệp đó. Thiên Chúa đã yêu thương, tuyển chọn ngài thay mặt Người để hướng dẫn, dạy dỗ. Người cũng ban cho họ ơn khôn ngoan để thi hành tác vụ cao quý này. Vì thế, người đào tạo cũng cần phải biết tận dụng những khả năng mà Chúa ban cho mình, đồng thời cũng phải biết bài trí cách hợp lý và khoa học để không bị rơi vào tình trạng “Lốp” như lúa thừa phân. Tức là phải biết sắp xếp. Tổ chức sao cho hợp lý. Được như thế, người thụ huấn cảm thấy an vui với lý tưởng mà họ đang theo đuổi và, hạnh phúc vì đang được hưởng một nền giáo dục hợp tình hợp lý.

Tam “Cần”: khi đã có nước và bón phân cách hợp lý, khoa học, lúa đương nhiên sẽ lớn dần và hứa hẹn một mùa gặt bội thu. Tuy nhiên, ngay cả lúc này, nếu người nông dân không để ý, thì cùng lúc, cỏ dại cũng mọc lên và lấn át lúa. Như thế, thất bát cũng có thể xảy ra ngay trong lúc này. Đổ vỡ vẫn có thể xảy ra ngay trên đỉnh cao của chiến thắng. Nhà đào tạo khi đã biết tổ chức, nhưng không đôn đốc, gợi hứng thì tinh thần của các em cũng bị trai lỳ và có một chủ thuyết “Mặc bay” (tức là thụ động). Khi đó, các em sẽ rơi vào tình trạng vô cảm, dựa dẫm, sống ký sinh nhờ người khác. Nếu nhà đào tạo năng động và làm mới lại những gì sẵn có, đồng thời có tinh thần chia sẻ trong khi đào tạo, thì họ sẽ lãnh nhận được sự hợp tác chân thành từ phía những môn sinh của mình. Khi đó, ta sẽ dễ dàng đồng hành với các em cách thiết thực hơn.

Tứ “Giống”: nếu ruộng tốt, đất tơi, nước dồi dào, cộng thêm sự chuyên cần nữa, thì đây quả là dấu chỉ rất tốt cho vụ mùa sắp tới. Nhưng nếu hội đủ các điều trên mà giống không tốt: giống sâu mọt, lép, quá hạn, chẩm…thì không thể nào có một vụ mùa bội thu được. Như vậy, trong công cuộc đào tạo, nhà huấn luyện cần phải biết suy tư. Suy tư để biết chọn giống tốt. Suy tư để biết gieo trồng đúng thời vụ. Suy tư để biết chăm bón đúng quy cách. Trong đời sống thiêng liêng, khi suy tư, người hướng dẫn biết tìm ra cách giải quyết sao cho hợp tình hợp lý. Khi suy tư, nhà đào tạo dễ thông cảm cho những thiếu sót của các em, vì ý thức rằng trong lỗi lầm đó có thiếu sót của chính mình. Khi suy tư, ta biết sống chan hòa mà không phân biệt, không sử dụng quyền theo ý riêng. Khi suy tư, các ngài được một kho tàng khôn ngoan là chính Chúa Thánh Thần. Người sẽ hướng dẫn ngài biết tìm thánh ý Chúa và hướng dẫn môn sinh đi theo đúng thánh ý Chúa muốn. Suy tư chính là hạt giống gieo vào tâm hồn Ứng sinh, để nhờ mảnh đất tâm hồn tốt tươi, môi trường lành mạnh, và đời sống sinh động. Hạt giống đó được nảy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả dồ dào. Hạt thì 30, hạt thì 50, hạt thì 100…

Cuối cùng, khi suy tư, nhà đào tạo biết tạ ơn Chúa vì hồng ân cao cả mà Chúa đang dành cho mình. Đồng thời cũng ý thức được mình chỉ là dụng cụ Chúa dùng trong chương trình toàn thể của Ngài. Mặt khác, khi suy tư nhà đào tạo luôn ý thức vai trò của người mục tử đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Đến để băng bó, chữa lành hơn là răn đe, trừng phạt.

Thay lời kết:

Tóm lại, việc đào tạo là việc rất quan trọng vì nó có tầm ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ. Nhà đào tạo không những có kiến thức, nhưng còn cần phải có một tâm hồn đào tạo. Một năng lực, và phải rất tinh tế cũng như năng động, để giúp cho người được thụ huấn đi đúng đường và an vui trong chọn lựa của họ. Khi Thiên thời, địa lợi nhân hòa, chúng ta có quyền hy vọng vào một đội ngũ lành nghề không chỉ có phẩm mà còn có cả lượng.

Thật mong thay…

Jos. Song Hành (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Nguồn: http://www.simonhoadalat.com

————————————–

*Ghi chú:

1.Xc. Jos.Vinc. Ngọc Biển, Những yếu tố làm nên người tu sĩ thừa sai thời @, đăng trên: “Nội San Ra Khơi số 04″, tr. 13-17.

2.Lm. Trần Minh Huy, pss, Đào tạo các nhà đào tạo, truy cập ngày 04-01-2013, trên: http://www.giaoducconggiao.net/index.php?m=module3&v=chapter&ib=1&ict=4

3.Trích bài bài giảng về đề tài luân lý tại Học Viện Liên Dòng Phaolô Nguyễn Văn Bình của linh mục Dom. Nguyễn Đức Thông, CSsR. kỳ I, năm 2010.

4.Xc. Charles Serrao, OCD, biện phân ơn gọi tu trì-đào tạo hướng đến sự thay đổi, Nguyễn Đức Thông, CssR. Dịch, NXB tôn giáo 2011, tr. 45.

5.Xc. Sđd. tr.81-82.

6.Lm. Trần Minh Huy, pss, Đào tạo các nhà đào tạo, truy cập ngày 04-01-2013, trên: http://www.giaoducconggiao.net/index.php?m=module3&v=chapter&ib=1&ict=4

7.Xc. Gioan Phao lô II, Tông huấn Vita Consecrata, ban hành ngày 25,03,1996, số 65.

8.Xc. Charles Serrao, OCD, biện phân ơn gọi tu trì-đào tạo hướng đến sự thay đổi, lm. Dom. Nguyễn Đức Thông, CssR. Dịch, NXB tôn giáo 2011, tr. 83-84.

9.Bernard Haring, CSsR. Tự do và trung thành trong Đức Kitô, lm. Dom. Nguyễn Đức Thông. CSsR. dịch, tập I, (nxb Tôn Giáo) năm 2012, tr. 175.

10.Xc. Charles Serrao, OCD, biện phân ơn gọi tu trì-đào tạo hướng đến sự thay đổi, lm. Dom. Nguyễn Đức Thông, CssR. Dịch, NXB tôn giáo 2011, tr. 127-128.

 Trong quan niệm cổ truyền tại Việt Nam, đi tu có nghĩa là từ bỏ đời. Thế nhưng người ta thấy từ công đồng Vaticanô II ra như giới tu sĩ đi ngược lại: thay vì bỏ đời, lánh đời, họ lại chủ trương “vào đời”. Tại sao lại có sự thay đổi ấy?

Có lẽ phải thêm rằng không những có người chủ trương “vào đời”, mà lại còn phải “yêu đời” nữa! Để hiểu sự thay đổi ấy, thiết tưởng không những chúng ta phải xem lại sự tiến triển của thần học tại Âu Tây về những giá trị trần thế, nhưng cần phải xét lại cái quan niệm đi tu tại Á đông của mình. Chúng ta phải nhìn nhận rằng ngôn ngữ và tư tưởng của chúng ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo không nhỏ: tỉ như chính cái chữ “tu”: phàm ai bỏ gia đình để dâng mình cho Chúa đều gọi là đi tu, không phân biệt là tu làm linh mục hay làm tu sĩ; trong khi mà thần học Kitô giáo phân biệt hai ơn gọi ấy: ơn gọi làm linh mục nhắm đến việc phục vụ cộng đoàn qua các tác vụ; còn ơn gọi làm tu sĩ nhằm đến sự trọn lành đức ái. Chính vì không hiểu sự khác biệt ấy nên nhiều người không hiểu được tại sao có chuyện đòi xét lại luật độc thân của linh mục: ở Việt Nam mình coi các linh mục cũng là thầy tu, nên đương nhiên là phải giữ độc thân rồi. Thế nhưng, theo quan điểm thần học, các linh mục “triều”, hay muốn dịch sát nghĩa hơn – linh mục “đời” (saecularis) – không phải là tu sĩ. Theo tôi nghĩ thì sở dĩ người Việt mình không hiểu được sự khác biệt về hai ơn gọi như vậy là tại vì trong Phật giáo không có sự khác biệt về đường tu. Đã tu thì phải bỏ gia đình, bỏ đời. Đến đây, chúng ta lại vấp phải một cái khó khăn nữa, về quan niệm “đời” giữa Phật giáo và công giáo.

Khác nhau như thế nào?

Tôi nghĩ rằng tiếng “đời” có thể hiểu theo hai nghĩa: một là theo nghĩa những cái gì tội lỗi nhơ nhớp, trần tục; hai là chính kiếp sống, đời sống, cuộc đời này. Khi nói rằng đi tu bỏ đời, chắc chắn là người công giáo hiểu là bỏ cái đam mê của đời, tựa như tội lỗi, gian tham, danh vọng, xa hoa, chứ không có nghĩa là từ bỏ cái đời sống này. Đối lại, Phật giáo hiểu cả việc từ bỏ cả cái đời sống này nữa. Chúng ta đừng quên rằng theo đức tin công giáo, chúng ta chỉ sinh ra có một lần, và chỉ sống có một đời ở trần gian này, còn theo Phật giáo, thì kiếp sống là một chuỗi đời sống nối tiếp nhau theo vòng luân hồi và định luật nhân quả. Và chuyện đi tu nằm trong phương thế để thoát khỏi vòng luân hối ấy. Tuy nhiên, chúng ta tạm gác lại vấn đề đi tu và bỏ đời theo quan điểm Phật giáo, để trở lại vấn đề đi tu theo công giáo.

Theo công giáo thì đi tu là bỏ đời vì đời xấu xa tội lỗi, phải không?

Phải thú nhận rằng trải qua dòng lịch sử, quan niệm đời là tội lỗi xấu xa ảnh hưởng không ít đến chuyện đi tu. Cần phải đi ngược lại nguồn gốc của phong trào đi tu vào hồi thế kỷ IV. Theo một số sử gia, sau thời kỳ cấm cách, Giáo hội không những được tự do hành đạo nhưng còn được dành những ưu đãi của chính quyền Rôma. Đời sống đạo xem ra lỏng lẻo. Trước đây, Giáo hội đã chiến đấu chống lại đời sống lăng loàn của đế quốc Rôma đến nỗi phải chịu bách hại, bây giờ ra như Giáo hội bắt tay với xã hội trụy lạc ấy. Để phản ứng lại, một số Kitô hữu đã bỏ thành thị lên đồng vắng. Họ bỏ đời hiểu cả theo nghĩa không gian, tìm cách xa tránh không giao tiếp với đời, và nếu cần thì phải chiến đấu chống lại chúng. Cũng theo các sử gia ấy, ơn gọi đi tu là ơn gọi tử đạo: trước đây, những Kitô hữu đã phản đối xã hội đồi trụy, và vì thế họ bị bách hại đến nỗi bị giết. Ngày nay, xã hội không còn đối nghịch với Kitô giáo nữa, nhưng các tu sĩ sẽ tiếp nối cuộc chiến đấu với thế gian, và tình nguyện chịu bách hại không phải bằng gông cùm tra tấn, nhưng là bằng những khổ chế mà họ tình nguyện chấp nhận. Dù sao đi nữa, việc các tu sĩ xa lánh đời được biểu hiện không những qua việc chọn những nơi đồng vắng để tu, nhưng còn qua nhiều hình thức khác nữa nhất là kể cả khi các đan viện nằm giữa khu có dân cư. Tỉ dụ như những bức tường cao, khu nội vi; rồi mỗi lần người tu sĩ ra khỏi tu viện không những là phải xin phép bề trên, mà lại còn phải làm việc đền tội khi trở về, vì đã tiếp xúc với thế gian, tai nghe mắt thấy bao nhiêu điều ô uế.

Nhưng mà đâu phải các tu sĩ đều rút lên đồng vắng đâu, có những tu viện được cất ở giữa thành phố đấy chứ?

Như đã nói ở đầu, trong ngôn ngữ Việt Nam không có sự phân biệt giữa ơn gọi làm giáo sĩ và ơn gọi làm tu sĩ: cả hai đều là đi tu hết. Dĩ nhiên là chỉ có các tu sĩ mới bỏ đời rút lên đồng vắng, còn các giáo sĩ thì vẫn phải ở lại thành thị để lo việc mục vụ. Hơn thế nữa, giữa lòng các tu sĩ, dần dần cũng nảy ra một khuynh hướng mới, đó là bên cạnh những người tìm về đời sống cô tịch, lại có những người cảm thấy cần phải hoạt động giữa đời, quen gọi là làm việc tông đồ. Khuynh hướng này phát triển từ thế kỷ XII-XIII với các Dòng Đaminh, Phanxicô, vân vân, và nhưng dòng này cất nhà giữa đô thị để dễ làm việc. Tại làm sao lại có hai khuynh hướng trái ngược như vậy? Thưa tại vì cái chữ “đời” có hai nghĩa trong Kinh thánh, nhất là các tác phẩm của thánh Gioan và Phaolô. Một đàng nó ám chỉ những lực lượng xấu xa tội lỗi, đối nghịch lại với Thiên Chúa, với tình yêu. Đôi khi chúng ta gọi là “thế gian”, hay “trần gian” và có người tán thêm: gian dối, gian tham, gian xảo. Dưới khía cạnh ấy, cái đời bị Kinh thánh lên án: anh em đừng chạy theo đời (Rm 12,2); anh em đừng có yêu đời, ai yêu đời thì sẽ không được Chúa yêu (1Ga 2, 15). Mặt khác, tiếng “đời” còn có nghĩa là tất cả những gì mà Chúa đã dựng nên, đặc biệt là thế giới con người, mà chúng ta có thể gọi là trần thế. Đối với cái trần thế ấy, Giáo hội mang một trách nhiệm phải rao giảng Phúc âm, bày tỏ tình thương cứu độ của Thiên Chúa, và để được như vậy thì phải “vào đời”. Chính vì ý nghĩa hàm hồ như thế nên không lạ gì, đứng trước cái mà chúng ta gọi là đời, người Kitô có thể có thái độ trái ngược, kẻ thì tránh đời, người thì yêu nó. Cái đó tùy theo cách chúng ta hiểu đời là gì. Nếu hiểu nó là những lực lượng tội lỗi thù địch với Phúc âm, thì dĩ nhiên chúng ta phải xa tránh; nhưng nếu hiểu như là những con người cần được đón nhận Tình thương của Thiên Chúa, thì chúng ta có nghĩa vụ phải xích lại gần, để mang Chúa đến cho họ và chia sẻ tình thương Chúa cho họ.

Hiểu như vậy, cho nên từ nay đi tu không cần phải lánh xa đời, nhưng có thể vẫn cứ sống ở giữa đời, phải không?

Trong những thập niên gần đây, xuất hiện trong Giáo hội những tổ chức gọi là tu hội đời: những thành viên tìm cách thánh hóa bản thân và thánh hóa đời ngay từ giữa lòng đời, chứ không lánh xa đời vào các tu viện như trước đây nữa. Tuy nhiên như thế không có nghĩa là các hình thức tu trì cổ truyền đã hết giá trị. Một đàng chúng ta biết rằng người Kitô còn phải tiếp tục chống lại “đời” hiểu theo nghĩa là các đam mê tội lỗi. Trong bản thân của mỗi người chúng ta, chúng ta phải chiến đấu với các yếu tố đời, tựa như tham lam, kiêu căng, cũng như bao dục vọng đam mê khác. Đó là chưa nói tới các hình thức tội lỗi khác nằm trong các cơ cấu xã hội gây ra cảnh bất công, bóc lột. Ba lời khấn của các tu sĩ nhằm biểu lộ sự chiến đấu chống lại “đời” hiểu theo nghĩa xấu ấy. Và các thành viên của tu hội đời cũng tuyên giữ ba lời khuyên Phúc âm. Tuy nhiên, thần học về đời tận hiến của công đồng Vaticanô II không phải chỉ trình bày các lời khấn như sự từ bỏ các căn nguyên tội lỗi, nhưng còn thêm rằng nhiều điều mà các tu sĩ khước từ tự nó là tốt, tỉ như sự tự do, tình yêu gia đình, nhằm nhắc nhở cho Dân Chúa đến những thực tại còn tốt hơn của Nước Trời mai hậu.

Nói thế thì có nghĩa là trong thế giới mai hậu, tất cả những gì của đời này, dù là xấu dù là tốt cũng sẽ tiêu tan hết hay sao?

Thật khó mà trả lời cách vắn tắt được. Chúng ta tin rằng trong thế giới mai hậu, khi Nước Chúa được thiết lập hoàn toàn, thì sẽ không còn tội lỗi và các vết tích của tội lỗi nữa. Nhưng khi Kinh thánh nói rằng Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sư, thì có phải là Ngài sẽ hủy bỏ hết cái thế giới này và xây dựng một thế giới hoàn toàn mới hay không? Ở số 39 của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, Công đồng vaticanô II đã trả lời một cách dè dặt rằng: những thành quả của con người tựa như nhân phẩm, tình huynh đệ, sự tự do, sẽ được duy trì, tuy sẽ được thanh lọc và biến đổi. Nói khác đi, những giá trị của trần thế không bị hủy diệt hoàn toàn, nhưng cũng se không được duy trì nguyên si: chúng sẽ được duy trì va canh tân. Trên thực tế, do kinh nghiệm bản thân, chúng ta biết rằng không có gì thập toàn ở đời này cả. Kẻ cả những tâm tình xem ra cao thượng nhất, tựa như tình phụ mẫu tử, cũng dễ bị vẩn đục bởi những khuynh hướng chiếm hữu ích kỷ. Chính vì vậy, và như đã nói việc các tu sĩ từ bỏ đời không phải chỉ giới hạn vào nhưng đam mê tội lỗi, nhưng còn bao gồm đến cả các giá trị tích cực của đời, nhằm nêu bật sự cần thiết phải tỉnh thức thanh luyện chúng ngõ hầu có thể biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa. Rút cuộc, theo tôi nghĩ, dù bỏ đời dù vào đời hay yêu đời, động lựïc cuối cùng phải là tình yêu của Thiên Chúa, tiêu chuẩn để xét những gì phải tránh lánh từ bỏ, và những gì cần thực hiện.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. 

Nguồn: daminhvn.net - 07/11/2015 

 

Dẫn nhập: Ngày nay, xã hội có sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Chắc hẳn, sự phát triển đó có ảnh hưởng tới đời sống đức tin của người Ki-tô hữu nói chung và đời sống người tu sĩ nói riêng. Việc đào tạo người tu sĩ trẻ được nhấn mạnh, để làm sao người tu sĩ vững vàng bước vào thế giới. Như Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II bàn về việc đào tạo Linh mục trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, các hội dòng cũng thực hiện việc đào tạo tu sĩ thông thường dựa trên các chiều kích khác nhau về nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ.

Như vậy, huấn luyện nhân bản là một chiều kích không thể thiếu trong tiến trình đào tạo người tu sĩ. Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành nhân bản? Người tu sĩ cần huấn luyện như thế nào để trưởng thành nhân bản? Sau đây là đôi điều xin được bàn luận.

Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành nhân bản?

Dưới cái nhìn của dân chúng, người tu sĩ là người trưởng thành nhân bản và trưởng thành Ki-tô giáo. Người tu sĩ có mối tương giao thường xuyên với người khác vì thế họ cần phải học cách cư xử và giao tế cho đúng phép. Hơn nữa, dưới cái nhìn chính danh, người tu sĩ là người được kêu gọi để trở nên "hình ảnh sống động" của Đức Giê-su, Đấng đã đến trần gian trong thân phận con người, hoàn hảo về phương diện nhân bản, đặc biệt qua thái độ của Người đối với tha nhân. Vì thế, người tu sĩ cần được rèn luyện để ngày càng trở nên giống Thầy của mình "có khả năng nhận thức được chiều sâu trong tâm trí con người, nhạy bén về những khó khăn và những vấn đề, dễ dàng gặp gỡ và đối thoại, gây được niềm tin và sự cộng tác, đưa ra những phán đoán ngay thẳng và khách quan." [1]

Trong huấn từ ban cho Dòng Cát-minh, ngày 23.9.1951, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập học viện Quốc tế của Dòng tại Rô-ma, Đức thánh cha Pi-ô XII đã khẳng định sự quan trọng của việc trưởng thành nhân bản: "Trong khi chờ đợi người tu sĩ trẻ trở nên thành viên có nhân đức sáng ngời, thì họ phải luyện tập trở thành con người hoàn hảo trong những công tác thường nhật: vì làm sao con người có thể trèo lên đỉnh núi nếu dưới đồng bằng họ đi chưa vững bước! Vậy ước mong rằng người tu sĩ rèn luyện và biểu dương qua cuộc sống, một nghị lực thích ứng với tha nhân và tương quan xã hội, một thái độ cởi mở, một bộ diện nhu mì, một tâm hồn trung thực, và cũng ước mong rằng người tu sĩ ấy luôn luôn giữ lời hứa, làm chủ ngôn hành của mình, biết kính trọng mọi người, giữ đức công bình, giữ đức nhẫn nhục.."

Công đồng Va-ti-ca-nô II trong Sắc lệnh đào tạo Linh mục cũng khẳng định: "Các chủng sinh phải tập cho quen biết điều thích hợp với cá tính mình, họ phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng" và " Sẽ thất bại khi gán ép sự thánh thiện Ki-tô giáo cho một người chưa đạt tới sự trưởng thành nhân bản"[2]. Những điều nói về chủng sinh, cũng phải hiểu về các tu sĩ nữa, nhất là các tu sĩ trẻ đang trong giai đoạn đào tạo.

Như vậy, sự trưởng thành nhân bản là rất cần thiết đối với người tu sĩ. Đó là nền tảng để xây dựng sự trưởng thành Ki-tô giáo và trưởng thành đời tu. Vậy, để trưởng thành nhân bản, người tu sĩ cần được huấn luyện thế nào? "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền,... thì xin anh em hãy để ý" (Pl 4,8)

Người trưởng thành nhân bản là người rèn luyện thành công những đức tính tự nhiên, đạt tới nhân cách viên mãn. Đó là phải rèn luyện để biết cư xử lịch sự với bản thân và người khác; biết sống thành thật, công bằng, chính trực, tiết độ; biết tự tín, tự chủ, sáng tạo; có tinh thần trách nhiệm ... Nói về nội dung giáo dục nhân bản, Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, đã khẳng định "sự cần thiết phải có một nền giáo dục về lòng yêu mến chân lý, sự chân thành, thái độ tôn trọng mọi người, ý thức về công bình, trung tín với lời mình nói, sự cảm thông đích thực, tính nhất quán và nhất là quân bình trong phán đoán và thái độ cư xử"[3] đối với các chủng sinh trong giai đoạn đào tạo. Điều này cũng phù hợp với người tu sĩ trẻ.

Khi nói đến giáo dục nhân bản, chúng ta thường nghĩ đến việc được đào tạo tựa như vị giáo sư truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm cho sinh viên. Điều này chỉ đúng một phần, mà có lẽ là phần nhỏ. Trong lĩnh vực đào tạo nhân bản, chính mỗi người phải tự đào luyện mình, với sự giúp đỡ của anh chị em hiện diện xung quanh.

Đối với tinh thần

Rèn luyện lòng chân thành: chân thành với mình và chân thành với người khác. Chân thành với mình là tư tưởng và hành động phải phù hợp với nhau, nghĩ sao làm vậy. Vì thế, trước khi hành động, chúng ta phải nhìn lại ý hướng của mình và cố gắng loại trừ những gì không tốt. Chân thành với người khác gắn liền với sự chân thành với chính mình. Không thể sống chân thành với chính mình khi không chân thành với người khác.

Truy tầm chân lý: là những người môn đệ Đức Giêsu, các tu sĩ đang trên đường tìm kiếm Chân Lý để có thể làm chứng cho Chân Lý. Đây là một hành trình dài, cần sự nhiệt tâm và kiên trì của mỗi người. Người trưởng thành không ngừng tìm kiếm tìm sự thật sâu thẳm về chính mình và về sự vật với con mắt nội tại của con tim, để ngày càng trở nên khiêm tốn và tin tưởng vào Thiên Chúa hơn.

Trau dồi kiến thức: Ngày nay, người tu sĩ sống trong môi trường khoa học phát triển, trình độ dân trí ngày một cao hơn, phương tiện kỹ thuật ngày càng đa dạng...Vì thế, để có thể phục vụ tốt hơn, để có thể chu toàn sứ vụ và trở nên hữu ích cho mọi người, người tu sĩ cần được đào tạo, trau dồi để có thể có trình độ kiến thức tương xứng và chuyên môn nào đó. Ngày nay có nhiều cơ hội học tập cho mọi người, vì thế để có kiến thức về một lĩnh vực nào đó là điều không khó.

Rèn luyện thái độ bao dung: "Bao dung trở thành đường lối xử thế chủ yếu làm sao để người khác được tự do trình bày những quan điểm mà chúng ta không đồng ý và nhất là cho phép mỗi người sống theo nguyên tắc và xác tín riêng".[4] Bao dung đích thực đòi hỏi phải có lập trường và xác tín riêng, nhưng không áp đặt xác tín của mình trên người khác, chấp nhận để những người khác cũng có những xác tín riêng của họ. Bao dung là nhìn nhận và chấp nhận những khác biệt giữa các cá nhân, là biết lắng nghe người khác, trao đổi với họ và hiểu họ. Như thế, bao dung là điều rất cần thiết đối với những người tu sĩ sống cộng đoàn.

Đối với tình cảm và ý chí

Tình cảm là một năng lực mãnh liệt có thể giúp chúng ta hăng say làm việc có ích hoặc có thể đẩy chúng ta vào con đường tha hóa. Chúng ta không thể hủy diệt tình cảm của mình. Vì vậy, cần phải rèn luyện tình cảm để khơi dậy sức mạnh nhân bản lớn lao, tức là điều khiển và hướng dẫn tình cảm vươn lên những đối tượng tốt đẹp hơn. Để chế ngự tình cảm và hướng nó đến những đối tượng cao đẹp, thì chúng ta cần tạo cho mình một ý chí mạnh mẽ. Để thành nhân, chúng ta phải biết tiết chế đam mê và hướng dẫn các khuynh hướng bản năng.

Rèn luyện khả năng yêu thương: trong thông điệp Đấng Cứu Chuộc, Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II khẳng định: "Con người không thể sống mà không có tình yêu". Vì thế, người trưởng thành nhân bản phải là người biết yêu bản thân mình, có trách nhiệm làm cho mình phát triển trọn vẹn cả về thể lý, tâm lý, thiêng liêng. Đó không phải là tình yêu vị kỷ, nhưng chính khi biết yêu bản thân mình, chúng ta biết trao hiến cho người khác, yêu thương và đón nhận họ như mình vậy.

Rèn luyện ý thức: người trưởng thành nhân bản là người biết khám phá và nhận biết chính bản thân mình với những nét độc đáo, riêng biệt. Chính khi ý thức về bản thân, chúng ta có thể chọn lựa và quyết định sứ vụ phù hợp với bản thân.

Chấp nhận thực tế: người tu sĩ trưởng thành nhân bản là người biết chấp nhận thực tế về bản thân, có cái nhìn đúng đắn về mình, không huênh hoang tự đắc, cũng chẳng giả bộ giả hình. Ngoài ra, người tu sĩ trưởng thành còn phải biết chấp nhận hoàn cảnh, môi trường cuộc sống của cộng đoàn, hội dòng, và anh chị em. Nhờ biết chấp nhận thực tế, họ có thể sống bình an, hạnh phúc.

Rèn luyện cảm xúc: người tu sĩ trưởng thành nhân bản là người sống yêu thương chan hòa với mọi người, có khả năng mở rộng tâm hồn cho mọi người và đón nhận họ một cách thanh thản, không thiên kiến với ai. Trong giao tiếp, họ biết diễn tả hồn nhiên và đúng mức cảm xúc.

Rèn luyện tinh thần trách nhiệm: người trưởng thành là người có tinh thần trách nhiệm về công việc mình đảm nhận, về cuộc sống cũng như lựa chọn của mình.

Rèn luyện khả năng thích nghi: chúng ta muốn bước vào cuộc sống mới, chúng ta phải chấp nhận từ bỏ lối sống cũ và sẵn sàng hòa nhập. Được coi như người lữ hành, người tu sĩ cũng phải rèn luyện để có thể thích nghi thường xuyên với môi trường mới.

Rèn luyện thái độ quân bình và trung dung: người tu sĩ cần rèn luyện để có thể luôn giữ được mức quân bình cần thiết: giữa tâm lý và thể lý, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lao động và nghỉ ngơi...Chính điều đó, giúp cho họ giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống, để sống đời tu hạnh phúc hơn

Huấn luyện lương tâm

Lương tâm có thể bị ngủ mê, sai lầm, lạc lối. Một số người có ít khả năng nhận ra tiếng nói của lương tâm, vì thế, vai trò giáo dục lương tâm được đặt ra một cách khẩn thiết. "Sự trưởng thành nhân bản của linh mục đặc biệt phải bao gồm việc huấn luyện lương tâm. Thực vậy để ứng sinh có thể trung thành chu toàn những bổn phận với Thiên Chúa, Giáo hội và biết khôn ngoan hướng dẫn lương tâm các tín hữu, họ phải làm quen với việc lắng nghe tiếng Thiên Chúa đang nói với họ trong tâm hồn, và chấp nhận thánh ý Người với lòng yêu mến và cương quyết".[5]

Huấn luyện lương tâm thế nào? Trước hết cần huấn luyện tri thức để biết những nguyên tắc căn bản về luân lý và giáo huấn Tin Mừng. Thứ hai: tạo một thói quen biết nhạy cảm trước những giá trị luân lý và luôn chăm chú kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng: để có thể lắng nghe tiếng nói lương tâm cũng cần cầu nguyện, có thái độ phản tỉnh và biết đối diện với bản thân mình.

Người tu sĩ phải nhận ra những đòi buộc mà con người phải chu toàn để thực hiện sứ vụ làm người. Họ sẵn sàng hành động không phải vì sợ hình phạt, hoặc hay muốn bắt chước cách hời hợt, nhưng dựa trên xác tín về những giá trị nội tại của các đòi hỏi luân lý.

Rèn lyện mối tương giao với người khác

Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định "mối tương giao với người khác có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là một yêu tố thực sự thiết yếu đối với người được mời gọi để lãnh trách nhiệm về một cộng đoàn và trở thành một con người hiệp thông"[6]. Thật vậy, con người không thể khép kín nơi chính mình, mà phải sống trọn vẹn chiều kích xã hội mở rộng mối tương quan với cộng đoàn. Thánh Tô-ma A-qui-nô diễn tả con người như một hữu thể sống với, sống cùng người khác và có trách nhiệm đối với lợi ích chung.

Theo cái nhìn xuất phát từ mầu nhiệm Hội thánh, đời sống tu sĩ phải thấm nhuần cả hai chiều kích: Chiều kích cá nhân – đó là đời sống nội tâm, và chiều kích cộng đồng – hướng đến tha nhân và dấn thân trong công việc tông đồ. Vì thế, người tu sĩ không thể không có mối tương quan với người khác, trước hết với anh chị em trong cộng đoàn, và sau đó với tất cả mọi người mà người tu sĩ dấn thân cho họ trong công tác tông đồ.

Vì vậy, người tu sĩ cần rèn luyện mối tương giao đó. Đó là rèn luyện thái độ cởi mở để có mối tương quan đích thực và lành mạnh với tha nhân ; thái độ tôn trọng phẩm giá con người, để có thể "vượt qua và loại trừ mọi hình thức kỳ thị về quyền lợi căn bản của con người trong lĩnh vực xã hội cũng như văn hóa, vì lý do phái tính, chủng tộc, màu da, điều kiện xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo"[7]. Ngoài ra, trong cộng đoàn, người tu sĩ cũng phải học cách hỗ trợ và xây dựng nhau, học cách chia sẻ, giao tiếp hài hoà...để ngày càng trở nên hiệp nhất trong Chúa Ki-tô và hiệp nhất với nhau trong sứ vụ.

Kết luận

Giáo hội mời gọi những người được thánh hiến trong bậc sống tu trì cần phải nhận ra sứ mạng của mình để có thể bước vào thế giới, dấn thân làm chứng cho tình yêu và phục vụ Tin Mừng hiệu quả. Để thực hiện được điều đó, họ phải được huấn luyện không chỉ về triết học, thần học, mà còn phải được huấn luyện để trưởng thành về tâm sinh lý, tu đức, tâm linh... Sự trưởng thành của ngươi tu sĩ không chỉ dựa vào nhà huấn luyện, nhưng chính việc tự huấn luyện, tự chịu trách nhiệm về chính mình trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội dòng mới tạo nên nền tảng vững vàng cho sự trưởng thành. Chính Đức Giê-su, Đấng đã sống trọn vẹn kiếp người, là gương mẫu tuyệt vời cho chúng ta bước theo.

(Tập san Chia sẻ số 62)

Công Thượng

Nguồn tin: http://daminhvn.net

Cộng đoàn là nơi quy tụ những người được Thiên Chúa chọn gọi. Họ cùng có những điểm chung như: Cùng chọn Giê-su là trung tâm của đời sống, cùng muốn bước theo Giê-su, cùng muốn hoà chung nhịp đập với Giê-su. Bên cạnh đó, mỗi người có những nét khác nhau về tài năng, hoàn cảnh, suy nghĩ… Họ như những nốt nhạc khác nhau và đặc biệt Thiên Chúa chọn gọi mỗi người khác nhau. Để xây dựng tình huynh đệ, mỗi người cần vượt lên những khác biệt, loại bỏ đi tính cá nhân, đón nhận nhau và dung hoà bằng sự hy sinh…. Cùng nhau chia sẻ sứ vụ, cùng nhịp bước với Giê-su và cùng kết nối với nhau tạo nên một bản nhạc về đời sống cộng đoàn. Tôi tự hỏi điều gì sẽ liên kết những con người này lại với nhau trong đời sống cộng đoàn? Liên kết họ trong đời sống dâng hiến? Phải chăng cần có những chất kết dính họ lại với nhau? Và điều gì là cần thiết cho đời sống cộng đoàn?

Để xây dựng một đời sống cộng đoàn yêu thương của lòng tin, buộc những con người đang muốn sống cộng đoàn có những đức tính cần thiết.Trong văn kiện đời sống huynh đệ cộng đoàn, số 27 chỉ ra rằng:

“Để nuôi dưỡng sự hiệp  thông tâm trí giữa những người  được gọi chung sống trong một cộng  đoàn, nhất thiết phải trau dồi những  đức tính cần có trong tất cả  các mối quan hệ nhân bản : sự kính  trọng, lòng tốt, sự chân thành,  tự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi  hài và tinh thần chia sẻ” (Trích số 27. Văn kiện đời sống huynh đệ cộng đoàn).

Sự kính trọng: Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa, là một nhân vị, đặc biệt chính Thiên Chúa đã yêu thương chọn gọi mỗi người. Kính trọng là cách xây dựng tình huynh đệ, cách thức thể hiện tình yêu thương và tôn trọng con người của nhau. Kính trọng biểu hiện trong ý kiến, đồ dùng, sự riêng tư, những chia sẻ, hay là khoảng cách cần thiết… Để mỗi người là chính mình và tôi là tôi.

Lòng tốt và sự chân thành: Lòng tốt là khi chúng ta nghĩ tốt về nhau, dành cái điều tốt cho người anh em của mình. Lòng tốt là cần tập luyện sự hy sinh, hảm mình và sự nhẫn nhục. Trong đời sống khi đã có lòng tốt thì cũng cần đến sự chân thành, vì tương quan có sự kính trọng mà không có sự chân thành là một tương quan giả dối. Bởi thế, sống chân thành là điều rất quan trọng. Khi sống chân thành, chúng ta cởi mở, không che đậy, để anh em có thể hiểu về nhau.

Sự kiềm chế: Trong tương quan cộng đoàn, chúng ta thường phản ứng quá nhanh, gây ra những sai lầm đáng tiếc. hay làm tổn thương nhau trong những cảm tính tự nhiên và xúc cảm nhất thời. Vậy nên, cần ý thức bản thân để kiềm chế và tập sống mỗi ngày tốt hơn.

Tính lịch sự: Đây là một cung cách hành xử, một đức tính nhân bản trong ứng xử người với người. Chúng ta cần lịch thiệp, ý tứ trong ứng xử, mức độ cho phép trong lời ăn tiếng nói, trong ăn mặc… Đặc biệt, có sự tôn trọng nhau trong tâm hồn và thể hiện ra bên ngoài trong cung cách hành xử.

Tinh thần chia sẻ: Đời sống cộng đoàn chúng ta trải qua những vui – buồn – sướng – khổ. Bởi vậy, tinh thần chia sẻ là rất cần thiết để chúng ta có thể hiểu nhau, thông cảm cho nhau và giúp nhau cùng thăng tiến trong đời sống. Tinh thần chia sẻ thì cần sự đơn sơ, thẳng thắng, tin tưởng, khả năng đối thoại, đón nhận và tâm hồn đơn sơ phó thác nơi Chúa.

Tính khôi hài: Thành tâm đón nhận những nếp sống cộng đoàn là điều tốt lành, nhưng cũng cần tạo ra những sự khôi hài trong đời sống cộng đoàn. Tính khôi hài tạo nên những nét độc đáo cần thiết, nhưng cần khéo léo, tranh gây tổn thương cho nhau. Đồng thời, cần làm toát lên “chất” của một người sống đời sống ơn gọi.

Tóm lại, đó là những điều tôi được học, hiểu và cảm nhận qua bài giảng của các Cha, nhưng điều quan trọng hơn là áp dụng và thực hành những kiến thức đã học vào trong chính cuộc sống của mình.

Nghị Lực

Nguồn: http://ungsinhdongten.net

Có một hình ảnh diễn tả về cái bóng giúp chúng ta dễ hiểu và hình dung, đó là hình ảnh nơi một người hướng về mặt trời và sau lưng họ là vệt dài của cái bóng. Cũng vậy, đời tu là một thực thể sống động, nó cũng bao gồm cả bóng lẫn hình. Có thể nói, hai mặt này là một tổng thể của một thực tại trọn vẹn. Có những tu sĩ đã phủ nhận phần cái bóng này khiến đời sống họ trở nên lệch lạc và mất quân bình. Bài viết này như những gợi ý giúp chúng ta khám phá lại cái bóng của mình trong đời tu để nhờ việc nhận ra và làm hòa với cái bóng mà ta biết mình hơn và nhờ đó, đời sống tâm linh được vững vàng và thăng tiến trong ơn nghĩa Chúa. Trước hết, chúng ta tìm hiểu thuật ngữ cái bóng.

CÁI BÓNG

Theo C.Jung, nhà tâm lý phân tích này cho rằng cái bóng là mọi thứ chúng ta đẩy lui vào trong tiềm thức vì nó không được người sống đồng thời “chấp nhận”. Nói cách khác, nó là thành phần trong nhân cách mà chúng ta đã ức chế vì chúng xung khắc với hình ảnh mà chúng ta muốn được nhìn nhận nơi mình từ người đối diện ; hơn nữa, vì cái bóng làm mờ nhạt hình ảnh bản thân mà chúng ta cố tạo trước mặt người khác, nên chủ thể cần tìm mọi cách để phủ nhận hoặc tỏ ra khinh thường cái bóng ấy cách nào đó. Hiểu như thế, những gì chúng ta cố tạo một hình ảnh bản thân thật ấn tượng từ cách đánh giá người khác, đôi khi là một thứ mặt nạ.

Chúng ta biết rằng mỗi người đều có những lý tưởng sống, điều này tạo nên một cách thể hiện cái tôi lý tưởng, nhưng vì lý tưởng khác xa với thực tế nên những cách biểu hiện của chủ thể thường mang một thứ mặt nạ cách nào đó. Và một khi con người dùng mặt nạ thật đẹp đẽ và ấn tượng để phô diễn ra bên ngoài thì ẩn sâu trong vô thức lại có một cái bóng xấu xí và tầm thường; nó luôn trực chờ những lúc chủ thể vô ý sẽ lộ ra bên ngoài. Đó là điều chúng ta vẫn nói ai đó: “trưởng giả học làm sang”.

Nói như thế, không có nghĩa là cái bóng hoàn toàn xấu; trái lại, nó là biểu tượng của sự thiện hảo như lời khẳng định của nhà tâm lý đại tài này: cái bóng trong vô thức không phải là điều xấu do bản chất, nhưng là nguồn mạch của sự thiện tối cao: không chỉ là bóng đen, nhưng cũng là ánh sáng; không chỉ là thú tính, bán khai và quỷ quái, nhưng cũng là siêu phàm, thiêng liêng và thần thiêng…[i] Bởi đó, cái bóng tùy thuộc vào nhận thức của chủ thể trong từng giai đoạn của tiến trình hình thành nhân cách. Chẳng hạn, khi triết gia Nietzsche quan niệm rằng nhân đức theo tôn giáo là một sự nhu mì và bạc nhược quá đáng thì ông đã đề cao một chủ nghĩa anh hùng siêu nhân. Trong khi đó, nhiều nhà phê bình lịch sử cho rằng trong thực tế đời sống ông là một người yếu nhược. Như thế, cái bóng về sự yếu nhược nơi ông một lần nữa trái ngược với mặt nạ mà ông muốn phô diễn cho người đời là một người mạnh mẽ. Tắt một lời, nhân đức khiêm nhường mà vị triết gia này khinh thường và phủ nhận, lại là một nội lực giúp chủ thể hình thành nhân cách trưởng thành. Vì như Đức Phanxicô khẳng định: nhân đức khiêm nhường không dành cho kẻ yếu mà cho người mạnh mẽ thực sự.

Một điều cần lưu ý ở đây, là bóng đi đôi với hình trong cùng một thực tại cuộc sống; tách rời hoặc loại trừ nó, đồng nghĩa với việc chối bỏ chính nhân cách của bản thân. Vấn đề là chúng ta cần khám phá ra cái bóng dưới mọi hình thức để giúp nó “hòa nhập” vào đời sống thực tiễn. Điều cấp thiết lúc này là tìm ra cách hình thành của cái bóng để từ đó khám phá ra và giúp nó hòa giải với bản thân. Có thế, nó sẽ giúp chúng ta tạo được thế quân bình trong đời sống.

VIỆC HÌNH THÀNH CÁI BÓNG TRONG ĐỜI TU

Bất cứ một tổ chức nào đều có những qui định nhằm hướng dẫn mọi thành viên tuân thủ hầu có thể giúp mọi người đạt được mục đích đã đề ra của một tổ chức đúng nghĩa. Cho dù là luật bất hành văn, nó cũng hàm chứa một số qui tắc giúp tổ chức đó luôn thăng tiến. Cộng đoàn tu trì cũng vậy, ở đó các tu sĩ khát khao sống đời tận hiến buộc phải giữ một số qui định, nó ví như một đường ray và chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường ấy mới mong đạt đến đích.

Có cả một phần Giáo luật nhằm hướng dẫn và chi phối những người sống đời thánh hiến, hơn nữa, mỗi tu sĩ cần thấm nhuần linh đạo của dòng mình để có thể thăng tiến toàn diện đời tu. Đó là chưa nói đến, những thói lệ của một cộng đoàn như một cách thích ứng của cộng đoàn tại nơi họ sống. Tắt một lời, họ cần biến một nền văn hóa khác biệt với những gì trước kia họ sống, vào trong cuộc sống của một cộng đoàn. Chúng ta vẫn nghe nói: cây cao bóng cả, điều này được giải thích theo nghĩa cái bóng của tâm lý học thì rất thú vị ! Nếu như cây cao được ví như những nố Giáo luật, linh đạo của dòng, thói lệ…là cây cao thì cái bóng cả ấy được hiểu là những gì chúng ta dồn nén vì bị choáng ngợp bởi các “thứ lề luật” chưa được “nhập thể”.

Chẳng hạn trường hợp của thánh nữ Têrêsa HĐGS, vốn là một thiếu nữ được sống trong một gia đình đạo hạnh. Thế mà, chị cũng choáng ngợp với những thứ luật chi li  được chỉ dẫn trong cộng đoàn. Chị được học cho biết con đường nên thánh của Mẹ Têrêsa Avila, là một loại “cây cao” sẽ dần tạo cái “bóng cả” nơi đời tu của chị, ít ra, trong những năm đầu.

Bước chân vào đời sống cộng đoàn, người tìm hiểu như bước vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Ở đó, họ học cho biết những qui tắc và những yêu sách của bậc sống của mình. Vì chưa quen với những đòi hỏi của đời sống này mà họ dễ có xu hướng sống khép kín, từ đó, họ muốn che giấu những lối cư xử “bố đời” để rập theo cách xử thế của những bậc trưởng thượng trong cộng đoàn. Do đó, đôi khi họ đốt cháy giai đoạn và vì thế, họ không tránh khỏi những dồn nén trong đời sống thường ngày. Cái bóng vẫn đeo bám họ cho đến khi họ biết tự vượt qua những thứ luật đã chi phối họ để tìm một sự giải thoát trong Tinh Thần và Chân Lý.

Cụ thể hơn, khi chúng ta xác tín rằng đời tu là theo sát gót Đức Kitô và trở nên đồng hình đồng dạng với Người thì những gì xem ra xa rời với lý tưởng ấy thì cách nào đó trong vô thức, chúng ta sẽ loại ra bên ngoài những gì cản trở bản thân đạt đến lý tưởng này. Vô hình trung, chúng ta có thể phủ nhận những phương thế xem ra không hợp với đời tu. Chẳng hạn, có thời gian người ta nghi ngờ phương pháp Thiền của Phật Giáo và cho rằng nó thật nguy hiểm cho người Kitô hữu nhưng gần đây đã có nhiều linh mục tu sĩ áp dụng phương pháp này theo nhãn quan Kitô giáo. Cái bóng ấy đã phủ một thời gian trong đời sống các Kitô hữu.

Như thế, chúng ta thấy việc hình thành cái bóng trong đời tu như một định luật tất yếu: hễ có hình là có bóng. Ấy là hai mặt của một thực tại duy nhất. Thế nhưng, cái bóng chỉ thực sự trở  nên tiêu cực và gây cản trở trong đời tu khi nó không được chính chủ thể tiếp nhận và hòa giải trong đời sống thường ngày. Trái lại, khi chủ động nắm bắt tầm ảnh hưởng của cái bóng, các tu sĩ sẽ biết mình thực sự để có thể xông vào “trận chiến” với tất cả sự tự tin vì biết mình cần phải làm gì.

NHỮNG CÁCH THỨC KHAI THÁC CÁI BÓNG

Các nhà tâm lý gợi ý nhiều cách khai thác cái bóng này, ở đây, chúng ta ghi nhận vài cách chính yếu và thiết thực được áp dụng cụ thể trong đời tu.

Phóng chiếu

Chúng ta có thể hiểu khái niệm này cách đơn giản theo lối nói bình dân: suy bụng ta ra bụng người. Nghĩa là khi chúng ta gán ghép quá đáng về một lỗi lầm của ai đó mà thực ra, nó lại nằm ngay trong chính bản thân mình. Chẳng hạn, khi thấy một tu sĩ nào đó làm một việc tốt, chúng ta giải thích ngay anh ấy đang lấy điểm và từ đó, giải thích hoàn toàn ý xấu và giải thích chiều hướng xấu theo tình trạng nội tâm của bản thân mình về hành động của vị tu sĩ ấy. Việc này giải thích cái bóng nơi chúng ta có thể là thích xoi mói việc làm người khác hoặc thường giải thích tiêu cực cho hành động của tha nhân…và thậm chí, những việc làm của chúng ta được coi là tốt và xây dựng cộng đoàn cũng là cách chúng ta đang lấy điểm và tạo nơi mình một thứ mặt nạ hầu mua chuộc sự tôn trọng rẻ tiền nơi tha nhân, đặc biệt là những người phụ trách của chúng ta.

Cũng theo chiều hướng đó khi xét đến những mặt tốt của người khác, chúng ta thấy rằng có người lại tỏ vẻ như không thích điểm nổi bật và tài năng của người khác. Trong khi đó, họ lại che giấu cái bóng của họ là bất lực khi thực hiện những ước ao: muốn được những điều tốt đẹp nơi người kia.

Một hình thức phóng chiếu khác được dân gian nhắc đến khi nói: chuyện bé, xé ra to. Chúng ta có thể hình dung mối tương quan của chiếc máy vi tính và bộ phóng chiếu. Nhìn vào chiếc máy vi tính, chúng ta nhận ra kích cỡ của mọi sự đều nhỏ so với những gì được phóng chiếu trên màn ảnh lớn. Điều này giúp chúng ta liên tưởng đến cường độ cảm xúc của chủ thể đã vượt quá mức độ cho phép của một tình huống nào đó. Nói cách khác, chúng ta phản ứng bất tương xứng với điều chúng ta nhận thức. Do đâu có sự phản ứng bất tương xứng này ? Thưa: vì khi chủ thể phủ nhận cái bóng của mình và khi nhận ra một nét tương đồng nào đó nơi người kia, họ ra sức chỉ trích và lên án người kia gấp đôi cường độ, đó là hậu quả của việc chỉ trích bản thân và lên án người khác cộng lại. Và như thế, họ đã phóng chiếu lên người khác những gì họ phải gánh chịu do cái bóng của họ mang lại và đổ trên đầu tha nhân một cách bất công. Để hiểu rõ hơn chúng ta cần phân tích một trường hợp cụ thể, khi quan sát thấy một người chị em trong cộng đoàn có cách cư xử thiếu tế nhị, thay vì tìm cách để trao đổi với họ trong tinh thần xây dựng, chúng ta lại rêu rao những lỗi nhỏ nhặt ấy cho người khác; tệ hại hơn, chúng ta lại còn trình báo với bề trên trong tinh thần “xây dựng”, nhưng trong thực tế, chúng ta hạ giá uy tín của người khác nhân danh một thứ đạo đức giả tạo. Thực ra, cái bóng của sự gây bất hòa chia rẽ và lòng đố kỵ đang ẩn sâu trong vô thức của họ. Như thế, chúng ta nhận ra: nền văn hóa “nổ và chém gió” đã hủy hoại mọi tương giao trong một cộng đoàn dòng tu.

Cũng còn một hình thức phóng chiếu khác ít được chúng ta quan tâm, đó là cái bóng của người mặc cảm tự ti. Người này đã phóng chiếu mặt tích cực của mình cho người khác. Họ có khuynh hướng đề cao tài năng người khác, ngưỡng mộ và muốn trở nên giống như người đó.[ii] Thế nên, họ tự hạ thấp bản thân và dần đánh mất nét độc đáo của mình trong một cộng đoàn. Họ thường mặc cảm mà nghĩ rằng mình không đủ năng lực để phục vụ cộng đoàn, từ đó, những năng lực và năng khiếu đã bị họ kìm nén không thể phát huy hết tính sáng tạo của nó. Cái bóng của mẫu người này đã phóng chiếu tích cực lên người khác không có gì đáng trách nhưng thật đáng thương ! Vì sự kìm nén cái bóng này mà họ đã đánh mất nhiều cơ hội để khẳng định mình và phục vụ cộng đoàn theo nén bạc Chúa trao.

Tóm lại, dù là phóng chiếu cách tiêu cực hay tích cực đều phản ánh sự lệch lạc và thiếu lành mạnh trong nhân cách. Có thể nói, phóng chiếu là cách mà tu sĩ thường dùng để tự vệ trong khi tương giao với anh chị em đồng tu và một khi cái bóng mà họ muốn gán cho người khác lại khiến họ đánh mất sự tự tin và cởi mở trong một tương giao đích thực.

Giấc mơ

Có thể nói, chúng ta chưa dành cho thông điệp của giấc mơ một vị trí xứng đáng trong đời sống thường ngày. Thật vậy, giấc mơ vén mở cho chúng ta cả một chân trời vô thức. Nếu như chúng ta dành 2/3 thời gian của ngày sống cho việc hoạt động và ý thức thì 1/3 quãng thời gian còn lại, chúng ta dành cho giấc ngủ và giấc mơ, đây là thời gian của hoạt động vô thức. Bởi vậy, nhiều nhà phân tâm học coi giấc mơ như một hình thức giải tỏa trá hình. Nếu như cả ngày “cỗ máy” của chúng ta hoạt động thì lúc ngủ nghỉ là thời gian cho chúng ta xả giãn; càng hoạt động với cường độ mạnh thì cơ thể càng cần nhiều lối thoát hiểm hơn. Chính vì thế, khi phân tích về giấc mơ, chúng ta sẽ khám phá một phần cái bóng của mình còn khuất ẩn.

Có một nữ tu trẻ đã chia sẻ giấc mơ của chị và cuộc chiến thiêng liêng rằng: chị phải mất một thời gian dài sống trong cuộc khủng hoảng khi đối diện với vấn đề quyền bính giữa chị với Bề trên. Trong một giấc mơ, chị thấy mình đi băng qua một con sông, dần dần con sông ấy dâng lên quá cao đến mức báo động. Có một người đã trao cho chị cái phao nhưng chị đã sử dụng cách miễn cưỡng vì không chấp nhận hình ảnh của người ấy. Đến khi lên bờ, chị đã dùng một vật nhọn mà giết chết người ấy. Khi thức dậy, chị nhận ra ngay hình ảnh của người liên quan trong giấc mơ là vị Bề trên của mình. Có thể nói, cái bóng của sự bất tuân phục, kiêu ngạo tưởng mình toàn năng không cần ai chỉ dẫn, đã đưa chị đến một con sông như muốn nuốt chửng chị mà chị không biết. Và lúc này, hình ảnh của vị Bề trên đã có mặt kịp thời để cứu chị nhưng chị lại ra tay hạ sát vị ân nhân này.

Xét cho cùng, phân tích giấc mơ cũng chỉ là một hình thức phóng chiếu dưới dạng biểu tượng. Thật vậy, nếu hiểu phóng chiếu là cách mà chủ thể áp đặt trên đối tượng thì giấc mơ cũng là phương tiện giúp chủ thể tự vệ khi gắn cho đối tượng những gì mình đã khước từ hay kiềm nén nơi bản thân. Mà khách quan chúng ta có thể nhận ra cái bóng trong biểu tượng ly kỳ từ giấc mơ mang lại. Chúng ta có thể trở lại với sự kiện minh họa trên, khi nữ tu kia đã phóng chiếu chính thái độ muốn điều khiển người khác của mình mà áp đặt cho vị Bề trên. Trong thực tế, vị này có toàn quyền trên chị. Chúng ta nhận ra rằng thái độ bất khoan dung của chị không hệ tại ở lệnh truyền của vị này nhưng do sự thống trị của bản năng gây hấn chưa được thăng hoa.

Một lần nữa, chúng ta nhận ra cơ chế phóng chiếu khả dĩ giải thích phần lớn cái bóng của chủ thể. Điều này đúng khi xét trong tương giao. Và giấc mơ là biểu tượng diễn đạt một tương giao đang có vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cần xét đến nội dung của những chuyện hài hước.

Hài hước

Có những sự việc khiến chúng ta tức cười, cũng có những sự kiện làm chúng ta buồn cười, và cũng có những điều giúp chúng ta vui cười. Tiếng cười hiện hữu luôn có một lý do để nó tồn tại. Chúng ta cười vì nhiều lý do nhưng ở đây, nó được giải thích theo cái bóng của chủ thể cười. Chúng ta hỏi rằng tại sao khi đối diện với cùng một vấn đề, người này cười còn người kia thì không. Câu trả lời là do chính mối quan tâm của mỗi người khác nhau. Thật vậy, khi có ai cười vì một sự việc nào đó, điều này giả thiết có một tương quan giữa chủ thể và vấn đề. Ở đây, cái bóng sẽ được nhận ra khi chủ thể có những hành vi hay thái độ vượt quá bản chất của sự việc cho phép. Chẳng hạn, khi thấy một người đồng tu lâm cảnh khốn khó, thay vì hỏi thăm và quan tâm, chúng ta lại biểu hiện bằng cách mỉm cười và đua giỡn. Đó có thể là biểu hiện một sự thờ ơ lãnh đạm mang tính dã man. Bởi thế, người đời có câu ví von thật hay: cười người hôm trước, hôm sau người cười. Đúng vậy, sự khốn khó trong đời rồi bạn cũng sẽ trải qua, cái cười của bạn hôm nay sẽ trả giá cho sự xúc phạm do chính bạn gây nên. Cái bóng mà bạn đã khước từ và khinh chê nay được bạn phóng chiếu lên người khác. Sự hài hước ấy là bằng chứng tố cáo tính tàn bạo hoang sơ nơi bạn.

Trong khi đang cử hành một nghi thức trang trọng, chúng ta lại bật cười vì một chi tiết sơ suất nhỏ nào đó của vị chủ tọa. Như thế, chúng ta không chỉ cười vì một lỗi mọn của người khác mà còn khinh chê một hình thức biểu hiện bên ngoài và xem thường một giá trị tâm linh. Cái bóng được giải thích ở đây là sự thiếu hiểu biết và sống nội dung mà một nghi thức tôn giáo mang lại. Hoặc chúng ta có thể giải thích rằng khi phản ứng bằng cách cười như thế, chủ thể như tách mình ra khỏi buổi cử hành đó để có thể đánh giá việc làm người khác hơn là sống chiều kích hiệp thông. Chia trí hay lo ra là chuyện thường tình của kiếp con người nhưng một khi có một ai đó phản ứng bằng cách “mỉm cười” thì họ đã nhạo cười chính nghi thức họ đang cử hành và hơn thế nữa, họ mặc nhiên xem thường chính việc họ đang ý thức cử hành.

Đặt câu hỏi

Phần này đã được Cha John Monbourquette gợi ý gồm 9 câu hỏi trong tác phẩm Làm thế nào để kết bạn với cái bóng của bạn. Tuy nhiên, khi giới hạn trong đời sống tu trì, thiết tưởng, chúng ta chỉ gợi lại 2 câu hỏi căn bản:

*Trực tiếp

 Những chủ đề thảo luận nào bạn có khuynh hướng tránh né khi trao đổi với người khác ? Những hoàn cảnh nào khiến bạn cảm thấy mình trở nên căng thẳng, sợ hãi và tự vệ ? Những lời nhận xét nào khiến bạn giật mình và đánh mất đi tính tự chủ ? Và những câu hỏi đại loại như thế.

Khi trả lời cho những câu hỏi này, bạn như bị người khác tạt vào mặt một gáo nước; nó khiến bạn giật mình. Nhưng khi chân thành và can đảm đối diện với cái bóng ấy, bạn sẽ ngộ ra một điều: chúng ta đều là những người giới hạn đang sống trong một thế giới bất toàn. Chúng ta tự hỏi tại sao cũng cùng một chủ đề tình dục mà người khác coi là chuyện bình thường, tôi lại trở nên cấu kỉnh và căng thẳng như thế ? Hóa ra, trước khi đi tu, tôi đã bị nhiều chàng thanh niên lạm dụng tình dục. Cái bóng ấy bấy lâu tôi muốn che giấu trước mặt mọi người.

*Gián tiếp

Những khía cạnh nào bạn muốn phô diễn ra trước mặt mọi người ?

Chúng ta vẫn nghe các bậc tiền nhân nói: Tốt khoe xấu che. Đây là cách ứng xử thông thường của người khôn khéo thì có gì liên quan đến việc trả lời câu hỏi này để nhận ra cái bóng ? Chúng ta thấy rằng việc phô diễn những gì tốt đẹp nơi mình theo hướng khai thác những thế mạnh, tích cực hay những đam mê của mình thì không có vấn đề, nhưng một khi chủ thể ảo tưởng về bản thân mình: nghĩa là thổi phồng cái tôi…thì đây là nơi cái bóng ẩn khuất. Thật vậy, khi chủ thể ảo tưởng về mình, họ tìm mọi cách để nâng mình lên một cách lố lăng và lòe loẹt, vô tình họ kìm nén những mặt tiêu cực và giới hạn để giữ mãi hình ảnh ấn tượng nơi cách đánh giá của người khác. Thế nhưng, sự thật sẽ phơi bày khi họ không thể kiểm soát hoàn toàn bản thân và cái gì giả tạo thì không thể bền vững.

Sau khi đưa ra những câu trả lời xung quanh câu hỏi trên, bạn chỉ cần làm một bản đối chiếu với những gì trên kia, bạn sẽ dễ dàng nhận ra cái bóng của bạn. Đây là phần triết lý anima (âm) và animus (dương) được C.Jung đề nghị trong một tác phẩm của ông. Chẳng hạn: khi tỏ ra là một người mạnh mẽ (dương), bạn cần phải che giấu và kìm nén những gì khiến bạn tỏ ra yếu nhược (âm). Hoặc khi muốn phô diễn trước mặt mọi người một mẫu người quảng đại thì cách nào đó, bạn muốn phủ nhận và khước từ con người ích kỷ trong mình.

LÀM HÒA VỚI CÁI BÓNG CỦA BẠN

Đôi khi chúng ta dễ tha thứ cho người khác hơn là cho chính mình. Cũng vậy, chúng ta dễ làm hòa với người khác hơn là làm hòa với bản thân. Đó là chủ trương của những người khoái khổ. Tác giả James E. Sullivan trong tác phẩm Hành trình tự do, đã gợi lên hai hình thức trừng phạt bản thân. Điều này cho thấy chúng ta không dễ đối diện và làm hòa với cái bóng của mình. Để thực hiện công trình nhiêu khê này, chúng ta cần trải qua 3 bước với tất cả sự can đảm và kiên nhẫn siêu nhiên.

Chấp nhận hiện hữu

Như chúng ta đã biết, một khi cái mặt nạ được chúng ta đeo vào mỗi ngày để biểu diễn trước mặt mọi người trên sân khấu cuộc đời, thì việc khước từ và phủ nhận cái bóng của mình là chuyện dễ hiểu. Thật vậy, sống trong một cộng đoàn dòng tu được bấy nhiêu truyền thống tốt lành thánh thiện kết tinh nên, chắc hẳn, những người bước vào đây phải có một bề dày nhân đức nào đó. Thế nhưng, những thói bố đời vẫn còn đó, vô hình trung, các tu sĩ không tránh được những lối sống hai mặt mà Đức Phanxicô đã đề cập trong 15 Căn bệnh của Giáo Triều. Cái mặt nạ nơi mình càng tinh tế thì con người càng tìm mọi cách che giấu cái bóng của mình cách tinh vi hơn; đến một lúc nào đó, vì ngủ mê trong những ảo tưởng về mình, họ quên rằng bản thân mang một cái bóng.

Vì thế, để có thể bước vào tiến trình làm hòa với cái bóng, điều kiện trước hết và trên hết là chấp nhận sự hiện hữu của nó như thành phần của đời sống cá nhân. Điều này đòi buộc mỗi cá nhân phải thực hiện một cuộc trở về với lòng mình, sống chiều kích nội tâm cách triệt để và với ơn Chúa, chúng ta thấy đâu là những cản trở khiến chúng ta ì ạch trên hành trình tâm linh. Chính cái bóng là đối thủ số một đã tác động và ảnh hưởng tiêu cực trên lý tưởng hoàn thiện của mỗi tu sĩ.

Gọi tên và chỉ điểm

Chấp nhận cái bóng trong đời sống đã là một bước tiến, thì việc gọi tên và chỉ điểm là việc dễ dàng với thủ thuật đã gợi ý trên đây. Nếu xét cái bóng với tương quan cái mặt nạ, chúng ta chỉ cần nhận ra những gì chúng ta còn ảo tưởng về mình hay những chủ trương thái quá trong đời sống. Chẳng hạn, khi muốn phô diễn trước mặt cộng đoàn tu trì hình ảnh về một người nhiệt tình và quảng đại thì cái bóng ấy được chúng ta che giấu với hai tên gọi: lười biếng và ích kỷ (đối lại với nhiệt tìn hvà quảng đại). Thật vậy, cái bóng này sẽ bị chúng ta ém gọn trong ngục tối dưới mọi hình thức. Hoặc nếu xét cái bóng do việc phóng chiếu, chúng ta sẽ gọi tên và chỉ điểm chính những gì chúng ta gắn cho người khác. Cái bóng trong máy vi tính của chúng ta có thể không thấy rõ nhưng một khi phóng chiếu lên người khác với tầm mức rộng và sâu, sẽ giúp chúng ta dễ nhận diện nó để khả dĩ đặt tên và chỉ điểm.

Làm hòa      

Đây là bước cuối cùng để giúp cá nhân toàn nhập vào đời sống cách toàn diện cả bóng lẫn hình, cả tối lẫn sáng, cả khuyết lẫn ưu nơi đời sống cá nhân trong một cộng đoàn tu trì. Để được thế, mỗi người cần làm một bản phác thảo cả thế mạnh và thế yếu từ cái bóng của bản thân. Chẳng hạn, việc chúng ta che giấu khuynh hướng ích kỷ của mình có lợi gì cho cá nhân và cộng đoàn, đồng thời, nó có hại gì cho cá nhân và cộng đoàn ? Chính khi đưa ra một kết quả cụ thể nào đó, chúng ta lại đối chiếu với những đòi buộc của cộng đoàn mình đang sống. Ví dụ, cộng đoàn này nêu bật tinh thần: mọi sự làm của chung. Chúng ta lại lấy dài nuôi ngắn, lấy chung làm riêng, đó là một trở ngại cho đương sự khi muốn thực sự dấn thân trong cộng đoàn ấy. Sau khi đã đặt mọi sự lên bàn cân, chúng ta đã biết mình cần làm gì để làm hòa với cái bóng trong đời sống ý thức của bản thân. Một lưu ý ở đây, bước tiến triển nào trong hành trình tâm linh phải được thực hiện cách tiệm tiến để tránh tình trạng “hội nhập nhất thời” khi chủ thể chưa đủ xác tín vào vấn đề liên quan và cách áp dụng trong thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta cần ghi nhận những lý tưởng trong đời tu phải được mỗi tu sĩ tiếp cận, học hỏi và nhập thể vào đời sống cách khôn ngoan và thuận theo ân sủng Chúa. Có thế, chúng ta sẽ giảm bớt những mặt nạ và làm dịu những cái bóng trong đời tu hầu tạo thế quân bình trong đời sống thể lý, tâm lý và tâm linh.

EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist. 

[i] C.Jung, Collected works, tr.389. Trích lại Wikie Au và Norren Cannon, Những thôi thúc trong tim, chuyển ngữ Nguyễn Ngọc Kính, tr.57.

[ii] Sđd, tr.74.

Nguồn: https://dongten.net