1. Người tu sĩ trẻ Việt Nam hôm nay

Ở Việt Nam một tu sĩ thường được coi là trẻ khi còn trong độ tuổi U 40. Một tu sĩ cũng được coi là trẻ khi chưa khấn trọn đời hay khấn lần cuối. Nhìn chung, tu sĩ trẻ ở Việt Nam hiện nay là người được sinh ra hay lớn lên trong một đất nước đã chịu tàn phá bởi chiến tranh, đang phải đối mặt với những khó khăn trong việc hàn gắn những đổ vỡ và đang cố xây dựng một khuôn mặt mới trước thế giới mà mình muốn hội nhập vào. Người tu sĩ trẻ là người ít nhiều chịu ảnh hưởng của bầu khí xã hội, của nền giáo dục gia đình và nhà trường, của những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời nay. Không thể huấn luyện một tu sĩ nếu không biết những ảnh hưởng đã tác động và in dấu trên họ trong quá khứ. Một hiểu biết như thế sẽ giúp người huấn luyện dễ thông cảm và dễ bổ sung những mặt còn yếu của người thụ huấn và phát huy những điểm mạnh. Hẳn khuôn mặt của người tu sĩ trẻ hôm nay có những nét khác với người tu sĩ cách đây nửa thế kỷ. Chúng ta không vội khẳng định tính ưu việt của các tu sĩ thời trước, hay vội thất vọng trước những yếu kém của các tu sĩ ngày nay.

  1. Mục đích của việc huấn luyện

Tu sĩ trẻ trong bài này được hiểu là những người đã khấn lần đầu hay khấn tạm. Việc huấn luyện nhằm mục đích giúp họ trở nên những tu sĩ thực thụ, gắn kết vĩnh viễn với Chúa Giêsu qua việc sống ba lời khấn, tháp nhập trọn vẹn vào thân thể Dòng và có khả năng chu toàn sứ mạng phục vụ con người hôm nay.

Giúp sống tình bạn với Đức Giêsu. Tình bạn này là cốt lõi của ơn gọi tu sĩ. Hãy theo Tôi : lời mời gọi chúng ta gắn bó với một con người. Tình bạn này được duy trì và lớn dần lên bởi việc cầu nguyện mỗi ngày, tiếp xúc với Lời Chúa và lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể. Ngoài ra việc xét mình hàng ngày, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm, linh hướng và các việc thiêng liêng khác cũng rất cần thiết cho đời sống tu trì. Gặp gỡ Chúa dần dần trở thành một nhu cầu chứ không phải một bổn phận. Khi đã có tình bạn sâu xa với Chúa Giêsu thì việc sống lời khấn trở nên dễ dàng. Người tu sĩ thấy mình càng ngày càng thuộc về Chúa Giêsu. Ý thức “thuộc về” này sẽ chi phối mọi quyết định và lựa chọn trong đời họ. Sống với Giêsu, sống như Giêsu, sống cho Giêsu và sốngtrong Giêsu : đó là những nét lớn của tình bạn với Ngài. Cuối cùng, người tu sĩ có thể gặp được Chúa ngay trong mọi sinh hoạt của đời thường, có thể sống chiêm niệm ngay trong mọi hoạt động.

Giúp sống ba lời khấn một cách vui tươi, trưởng thành, triển nở : đó là đích nhắm của việc huấn luyện. Các lời khấn là những ràng buộc tự nguyện của người tu sĩ. Những ràng buộc này đòi hỏi họ vượt lên trên các khuynh hướng tự nhiên của con người mình. Lời khấn vâng phục đòi họ sống tùy thuộc, mềm mại để Chúa dẫn đi qua trung gian người phụ trách. Để vâng phục có lúc phải hy sinh ước muốn và phán đoán riêng tư của mình. Lời khấn khiết tịnh đụng chạm đến khuynh hướng tự nhiên của thân xác và những thèm muốn tự nhiên về mặt tâm lý: muốn yêu một người và muốn được yêu lại, để cùng nhau xây dựng một mái ấm gia đình. Lời khấn khó nghèo đòi người tu sĩ trở nên tay trắng, chẳng có gì làm của riêng, không sử dụng điều gì như một ông chủ. Ba lời khấn đụng đến những khuynh hướng rất căn bản nơi con người.

Hơn nữa, sống ba lời khấn trong thế giới hôm nay nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng, cũng là lội ngược dòng. Khi con người chạy theo quyền lực và đề cao tự do cá nhân, khi khoái lạc xác thịt được bày ra như một món hàng có mặt khắp nơi và lôi kéo mọi người, khi người ta lao mình vào làm giàu bằng mọi giá để tiêu thụ và hưởng thụ, thì đời sống người tu sĩ có vẻ lạc lõng, kỳ dị và đi ngược với văn hóa thời đại. Sống ba lời khấn có còn là một chứng từ cho thế giới hôm nay không?

Chắc là không, nếu người tu sĩ không cho thấy rằng các lời khấn vừa ràng buộc họ vừa làm cho họ được thật sự tự do, hay nói đúng hơn, chính khi ràng buộc mà lời khấn làm cho họ được tự do.

Huấn luyện tu sĩ trẻ là làm cho họ cảm thấy vui tươi và triển nở khi sống trung tín với lời khấn, dù điều đó có thể đi ngược với khuynh hướng tự nhiên của họ hay với chính nền văn hóa họ đang sống.

Vâng phục để được sai đi trong một sứ mạng, điều này chẳng những không làm họ vong thân, mà lại giải phóng họ khỏi những dự phóng riêng tư hẹp hòi, để hiến mình cho một sứ mạng phổ quát hơn. Họ thấy mình lớn lên khi dốc toàn tâm trí, toàn sức lực và năng lực của tuổi trẻ để hoàn thành công việc được giao. Vâng phục tự nó chẳng có gì mâu thuẫn với đối thoại, sáng kiến và sáng tạo.

Đời sống độc thân khiết tịnh đòi họ chấp nhận sự cô đơn, nhưng họ lại không thiếu bạn bè. Chính khi trái tim của họ không ngừng lại ở một người nào thì trái tim ấy có sức mạnh kinh khủng để yêu mọi người và khiến mỗi người cảm thấy như thể mình được yêu một cách duy nhất. Người sống khiết tịnh vì Nước Trời cảm thấy hạnh phúc vì mình có tự do yêu đến vô cùng và mình cũng được nhiều người yêu mến.

Lời khấn khó nghèo làm người tu sĩ trở nên tay trắng, nhưng đồng thời cũng làm cho họ trở nên giàu có gấp trăm ngay ở đời này nhờ những chia sẻ vật chất và tinh thần họ nhận được từ các tu sĩ khác. Họ phải lệ thuộc cộng đoàn trong việc chi tiêu, nhưng họ lại được giải thoát khỏi nhu cầu và sự quyến rũ của tiền bạc vật chất.

Sống ba lời khấn là sống lại tinh thần của Đức Giê su, Đấng đã sống vâng phục, khó nghèo và độc thân khiết tịnh. Chẳng ai lệ thuộc vào Cha bằng Ngài, nhưng cũng chẳng ai tự do như Ngài. Chẳng ai dám chịu đau khổ vì yêu như Ngài, nhưng cũng chẳng ai hạnh phúc như Ngài.

2.1.      Giúp sống tình bạn với các tu sĩ khác trong Dòng : đó cũng là mục  tiêu quan trọng của việc huấn luyện. Người tu sĩ không theo Chúa một mình. Anh hay chị ấy đi theo Đức Giêsu cùng với những người được gọi khác, để sống cùng một linh đạo và đặc sủng của vị sáng lập. Đời sống chung giữa những con người không bao giờ dễ dàng, kể cả trong đời tu. Cá nhân chủ nghĩa chẳng phải chỉ ở các nước Âu Mỹ mới có. Nó nằm ngay nơi lòng con người. Cần huấn luyện những người tu sĩ trẻ để họ có khả năng cho và nhận, khả năng lắng nghe và đối thoại với những người có ý kiến đối nghịch, khả năng hợp tác với nhau trong một công việc chung. Ganh tỵ, bè phái, tranh dành quyền lực, khẳng định cái tôi, vẫn là những sự thế tục mà đời tu phải thắng vượt. Thánh Phaolô khuyên mỗi người tín hữu ở Rôma “đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức,” và “hãy coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12, 3,10).  Đức Giêsu lại ban một lệnh truyền mới: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Tình yêu thương trong cộng đoàn là dấu hiệu để mọi người nhận ra khuôn mặt người môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 13, 34-35). Chính tình yêu thương này giúp người tu sĩ sống nghèo khó và khiết tịnh một cách vui tươi, dễ dàng hơn.

Để sống cho người khác bao giờ tôi cũng phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm, “không tìm lợi ích cho riêng mình” (Pl 2,4). Người tu sĩ trẻ cần tập nhạy cảm trước nhu cầu của anh chị em trong Dòng và hồn nhiên phục vu họ. Hơn nữa, còn phải tập chịu đựng, chấp nhận và đón nhận từng người trong cộng đoàn, với những ưu khuyết điểm riêng. Có thể nói như thánh Phaolô, “những gì là chân thật , cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8). Mọi giá trị nhân bản thực sự đều đáng được người tu sĩ trẻ học hỏi và thực hành. Tiến bộ trong đời tu có thể được đo bằng khả năng sống bình an hòa thuận và làm việc được với các tu sĩ khác, bất chấp những khác biệt về tính tình, tuổi tác, trình độ hay quan điểm. Người tu sĩ trẻ được huấn luyện sao cho càng lúc càng gắn bó hơn với thân thể của Dòng, với sứ mạng của Dòng, chờ ngày được tháp nhập trọn vẹn trong Dòng qua lời khấn cuối.

2.2.     Giúp trở nên các tu sĩ có khả năng đảm nhận sứ mạng được giao. Mỗi hội   dòng đều có những việc tông đồ chuyên biệt, ngoài ra còn có những việc tông đồ đặc thù của từng vùng, từng quốc gia. Việc huấn luyện luôn nhằm cung cấp những người thợ lành nghề cho vườn nho của Chúa,  những ngư phủ có khả năng ra chỗ sâu để thả lưới bắt cá. Việc huấn luyện trí thức lâu dài đòi hỏi một sự nghiêm túc và một sự khổ hạnh nào đó. Chỉ tình yêu đối với Giêsu và với con người mới giúp vượt qua được những khó khăn của giai đoạn học tập.

Các tu sĩ trẻ phải ý thức mình là người được sai để nối tiếp công việc của Giêsu. Các lời khấn ghi dấu trên công việc tông đồ của họ. Họ là người tông đồ trong vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh như Đức Giêsu, Vị Tông đồ của Cha. Như thế khi làm tông đồ, họ thể hiện ơn gọi tu sĩ và trở nên tu sĩ hơn. Ba lời khấn của người tông đồ được diễn tả qua việc họ không tự chọn việc cho mình hay làm theo cách của mình, không bám rễ ở nơi chốn mình được thành công, không giữ người ta lại cho mình, chỉ coi mình như người quản lý chứ không phải là chủ của đoàn chiên. Người tu sĩ trẻ sống hết mình cho việc tông đồ hiện tại, nhưng cũng được mời gọi sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào, để ở nơi khác, làm việc khác và lại bắt đầu những tương quan mới với những người mới.

  1. Những khó khăn trong việc huấn luyện người tu sĩ trẻ hôm nay

Huấn luyện người tu sĩ là cộng tác với Thiên Chúa và với chính người ấy để làm một công trình lớn. Từ xưa đến nay, việc này chẳng bao giờ dễ dàng.

3.1   Có những khó khăn do hoàn cảnh xã hội, do bối cảnh chung của thế giới, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa này. Trước khi vào Dòng, người dự tu đã chịu ảnh hưởng của gia đình, của học đường, của xã hội mình sống. Có nhiều giá trị tích cực, nhưng cũng không thiếu những điều tiêu cực ảnh hưởng trên lối suy nghĩ, lối sống, trên bậc thang giá trị của mỗi người. Lối sống tiêu thụ và hưởng thụ của con người hôm nay làm cho việc tuân giữ kỷ luật, hy sinh từ bỏ, khổ chế giác quan, trở nên khó chịu và nặng nề; thái độ đề cao tự do cá nhân quá đáng dẫn đến cá nhân chủ nghĩa và óc vụ lợi; tinh thần thế tục khiến cảm thức về những giá trị thánh thiêng trở nên khó khăn; cuối cùng, sự thiếu trung thực, trong sáng của người tu sĩ gây trở ngại nhiều cho việc huấn luyện.

Người tu sĩ trẻ hôm nay muốn được tôn trọng, được hỏi ý kiến, được đóng góp cho việc chung của Dòng. Họ thích được tin tưởng, được trao trách nhiệm, được tự do giải quyết vấn đề. Họ không thích bị áp đặt, bị dòm ngó theo dõi, bị nhắc nhở chi li. Nhưng họ cũng cần có người đồng hành biết cảm thông và nâng đỡ, cần người phụ trách biết kiên nhẫn và khoan dung khi họ gặp khó khăn, khủng hoảng. Với một chút khôn ngoan, người huấn luyện có thể biến những khó khăn thành thuận lợi.

3.2    Việc huấn luyện người tu sĩ trẻ hôm nay khó có thể bị khép kín trong hàng rào nội cấm. Nếu họ được huấn luyện để đi vào và biến đổi thế gian thì thời gian huấn luyện cũng là thời gian được hướng dẫn để hiểu biết thế gian với những cám dỗ tinh vi và sức quyến rũ của nó. Sách báo, phim ảnh, internet, máy vi tính, TV kỹ thuật số, cell phone… vẫn đang có chỗ càng ngày càng lớn trong cộng đoàn tu sĩ. Tất cả các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại đều là những dụng cụ tốt cho người biết sử dụng, nhưng chúng cũng có thể trở nên khí cụ “hữu hiệu” đưa tinh thần thế tục vào đời tu, cản trở việc sống các lời khấn, hủy hoại đời sống chung cũng như đời sống cầu nguyện. Làm sao huấn luyện được những tu sĩ trẻ biết chọn lựa phim ảnh, âm nhạc thích hợp với đời tu của mình và biết thưởng thức chúng với tinh thần phê phán? Làm sao để những điều quyến rũ được nhiều người trẻ ngoài xã hội, như tình dục và bạo lực, lại không cuốn hút, mê hoặc được người tu sĩ trẻ? Làm sao để người tu sĩ có khả năng từ chối, quay đi, xa tránh những cám dỗ nguy hiểm, mà không do sợ hãi, ép buộc, và sau đó cũng không thấy mình bị dồn nén hay tiếc nuối? Người lo công tác huấn luyện hẳn không thể và cũng không muốn giữ các tu sĩ trong một bầu khí bưng bít. Nhưng vấn đề là làm sao mở ra mà vẫn không đánh mất căn tính của mình. Chắc hẳn sự mở ra phải tỷ lệ với mức độ trưởng thành của từng nhóm, và ngay cả của từng cá nhân. Cần huấn luyện tu sĩ để họ đủ trưởng thành, đủ bản lãnh để có thể đứng một mình và chọn lựa dựa trên khả năng nhận định thiêng liêng. Những vấp váp có thể xảy ra, nhưng không nên cầu toàn và tránh vấp váp bằng mọi giá. Điều quan trọng là rút ra bài học và lớn lên từ những vấp ngã đó.

Câu chuyện Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ qua bờ bên kia sau phép lạ bánh hóa nhiều và để họ chèo chống một mình với sóng gió giữa đêm tối, cũng hé mở cho chúng ta thấy khoa sư phạm của Đức Giêsu (Mt 14, 22-32). Ngài không ngại đòi buộc họ và bắt họ đối diện với những thách đố gay go. Ngài cũng muốn đến với họ theo một cách thức khác thường khiến họ kinh khiếp. Ngài dám cho Phêrô đi trên mặt nước như mình, và nắm tay ông dắt về thuyền giữa sóng gió. Có bao kinh nghiệm các môn đệ học được trong một đêm như đêm hôm ấy.

3.3   Mỗi giai đoạn huấn luyện cũng có những khó khăn riêng. Trong giai đoạn học viện, người tu sĩ trẻ bắt đầu thực sự sống các lời khấn, và cảm nhận những thách đố mà trước đây chưa thấy có hay chưa nghĩ đến nơi nhà tập. Dù sao họ cũng được hưởng một tự do lớn hơn, cái tôi được khẳng định nhiều hơn, những bức tường bảo vệ ít hơn. Chính trong tư cách như một tu sĩ trẻ, họ trở nên hấp dẫn dưới mắt người khác, từ đó có thể chịu nhiều cám dỗ hơn. Nam tu hay nữ tu đều có những khó khăn riêng do tâm sinh lý của từng giới. Người huấn luyện phải nắm vững những hiểu biết này để tránh phán đoán sai lệch và giúp người thụ huấn vượt qua những khó khăn đó.

Riêng đối với những tu sĩ học triết, đôi khi họ có thể gặp khủng hoảng trong đời sống đức tin,  và gặp những khó khăn mới liên quan đến đức vâng phục hay đời sống cộng đoàn. Điều này cũng dễ hiểu vì triết học tự nó đặt những câu hỏi tận căn và tập cho triết sinh có thái độ phê phán. Người học triết có thể nghi ngờ những xác tín thiếu nền tảng trước đây của mình. Họ có thể đòi hỏi được tự lập hơn và làm cho những căng thẳng trong cộng đoàn thêm trầm trọng. Đối với các tu sĩ đang tiến tới chức linh mục, giai đoạn học thần học phải giúp họ trở nên những mục tử trưởng thành về các mặt thiêng liêng, trí thức, nhân bản, có khả năng phục vụ Dân Chúa và chạm đến những vấn đề gai góc của con người hôm nay.

3.4   Nói chung, việc huấn luyện khó vì phải hòa hợp được những mặt có vẻ tương phản. Không dễ để người tu sĩ  trẻ giữ nghiêm túc kỷ luật đời tu mà vẫn không thấy mình bị gò bó, sống nghiêm túc lời khấn vâng phục mà không đánh mất sáng kiến, tự do và trách nhiệm. Không dễ để người tu sĩ trẻ vừa khiêm tốn chấp nhận được huấn luyện bởi người khác, vừa chủ động trong việc tự huấn luyện.  Làm sao có sự hiệp nhất, đồng tâm nhất trí trong cộng đoàn mà mỗi cá nhân vẫn giữ được bản sắc của mình? Làm sao hội nhất (integrate) những chiều kích khác nhau của việc huấn luyện như thiêng liêng, tông đồ, cộng đoàn và trí thức? 

  1. Hình ảnh người tu sĩ công giáo Á châu

Là người tu sĩ công giáo Á châu sống trên một châu lục rộng lớn, chiếc nôi của những tôn giáo lớn và mảnh đất màu mỡ của những truyền thống tu trì lâu đời, chúng ta nghĩ gì về đời tu của chúng ta? Di sản thiêng liêng của châu lục này có thể làm phong phú cho đời tu của chúng ta như thế nào? Đâu là những nét đặc sắc của người tu sĩ công giáo Á châu? Câu trả lời cho những câu hỏi này có thể ảnh hưởng đến việc huấn luyện các tu sĩ trẻ.

Trong một hội nghị tại New Delhi năm 2004, 88 tu sĩ dòng Tên của vùng Nam Á và vùng Đông Á- Uc, đã suy nghĩ về tính Á châu (Asianness) của người tu sĩ dòng Tên ở đây. Từ đó họ đề nghị 10 nét đặc trưng của người tu sĩ dòng Tên Á châu (Asian Jesuits, chứ không phải chỉ là Jesuits  in Asia). Một số nhận định của họ đã giúp tôi suy nghĩ về đôi nét cần nhấn mạnh hơn trong việc việc huấn luyện các tu sĩ trẻ nói chung trong bối cảnh đất nước chúng ta.

_  Trong tư cách là bạn của Đức Giêsu, người tu sĩ cần nhìn lại Tin Mừng với cặp mắt và con tim Á châu để tái khám phá Đức Giêsu Á châu (Asian Jesus).  Có nhiều nét nơi con người Ngài rất gần gũi với tâm thức của dân tộc Việt. Vấn đề là làm sao người tu sĩ được hấp thụ một nền triết học, thần học và linh đạo Á châu có tính nhất quán, để dễ loan báo Tin Mừng cho người Á châu.

_   Người Á châu có cảm thức mãnh liệt về sự thánh thiêng và sự hiện diện của thần linh thấm nhuần mọi sự. Những tôn giáo lớn đều có những hình thức và phương pháp cầu nguyện. Người tu sĩ công giáo, dù bận bịu với việc phục vụ con người đến mấy, cũng phải dành thời gian cho sự thinh lặng và trầm mặc trong từng ngày sống của mình. Tự bản chất họ phải là những con người cầu nguyện, con người gặp gỡ và làm chứng về một thế giới vô hình mà mình rất quen biết. Hơn nữa, họ còn phải là người thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa đang hoạt đông trong mọi sự.

_   Sống trong một châu lục đa tôn giáo và đa văn hóa, người tu sĩ trẻ cần có thái độ cởi mở, chấp nhận đối thoại như một lối sống, xây dựng một không gian hòa đồng và yêu thương, nơi đó ai cũng thấy mình được đón nhận và không sợ bị đe dọa bởi bạo lực hay chủ nghĩa cực đoan, bè phái. Người tu sĩ còn cần có khả năng cộng tác với những ai khác tôn giáo để làm chung những việc có ích cho xã hội.

_   Sống trong một châu lục và một đất nước còn nhiều người đói nghèo, người tu sĩ bày tỏ tính siêu thoát của cải trần thế qua một lối sống đơn giản và thanh đạm, khiêm tốn và từ bỏ, nhưng đầy ắp niềm vui chia sẻ. Hơn nữa, người tu sĩ còn liên đới với người nghèo, chọn phục vụ người nghèo và người bị áp bức, giúp họ được sống trong no đủ và công bằng.

Đời sống độc thân khiết tịnh vẫn là một giá trị được coi trọng trên đất nước chúng ta. Người ta coi bậc chân tu là người phải có khả năng thắng vượt những thèm muốn xác thịt tự nhiên để sống cho lý tưởng cao cả. Như thế cần huấn luyện sao cho người tu sĩ trẻ có được sự trưởng thành tình cảm và tâm lý. Điều này đặc biệt quan trọng vì người tu sĩ công giáo phải tiếp xúc với mọi hạng người. Họ sống giữa đời, sống với đời và sống cho đời.

Nói chung, đời sống khó nghèo và khiết tịnh là những nét đáng quý trên khuôn mặt người tu sĩ Á châu. Nhưng nét nổi bật của người tu sĩ công giáo lại là lòng nhân ái đến độ dám hy sinh cả đời mình cho những ai đau khổ, bệnh tật, lầm lỡ. Lòng nhân này được thể hiện rõ nét nơi các trại phong hay các nơi chăm sóc bệnh nhân AIDS.  Lòng hy sinh tận tụy cho những ai bị bỏ rơi, vì tình yêu đối với Đức Giêsu, vẫn làm con người hôm nay xúc động. Trường hợp Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ.

_   Cuối cùng, người tu sĩ trẻ cần am hiểu và gần gũi với nền văn hóa và lịch sử dân tộc, với truyền thống âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, văn chương dân gian, lễ hội, phong tục của đất nước. Có biết bao điều tốt đẹp cần bảo trì và phát huy, nhưng cũng có bao yếu tố không phù hợp cần can đảm thanh lọc hay loại bỏ. Càng hiểu biết về cội nguồn dân tộc, ta càng có khả năng đưa Tin Mừng vào nền văn hóa và đưa nét đẹp của văn hóa vào việc trình bày Tin Mừng Đức Giêsu. Ngoài ra, người tu sĩ trẻ cũng cần biết về nền văn hóa đương đại đang chi phối mạnh mẽ lối sống của người thời nay, để không xa lạ với giới trẻ. Vừa có cái nhìn phê phán, vừa biết tận dụng những giá trị tích cực của nó như những nẻo đường giúp người thời nay gặp gỡ Đức Kitô : đó là thái độ quân bình cần có.

Trên đây chỉ là một vài suy nghĩ dựa trên những kinh nghiệm cá nhân, vì thế cần được bổ xung bằng những kinh nghiệm khác để trở nên cân đối và phong phú hơn. Mong được sự góp ý của những người lo công tác huấn luyện.

 

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Học Viện Dòng Tên, Thủ Đức Tháng 9-2005

Nguồn: https://dongten.net

Nếu hiểu nhân cách là một thái độ tự do chọn cho mình một “linh đạo” riêng thì người lệ thuộc lại thoái thác cuộc đời mình cho người khác. 

Khi đối chiếu nhân cách tôn giáo của mỗi tín hữu với đời tu, chúng ta thấy nổi bật giá trị của các lời khuyên Phúc Âm (CLKPA). Tất nhiên, việc giữ các lời khuyên này dành chung cho mọi tín hữu. Tuy nhiên, ở cấp độ cao hơn và triệt để hơn, các tu sĩ khấn giữ những điều ấy như là một điều bó buộc trong nhân đức thờ phượng. Đây là nét đặc trưng và nét đẹp nổi bật mà mỗi tu sĩ cần sống và chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm. Việc tuyên khấn, vì là một hành vi của ý chí tự do nên chúng giúp hình thành nhân cách. Hơn nữa, nó hướng nhân cách đi theo con đường phù hợp với chương trình của Thiên Chúa và đồng thời làm cho nhân cách được triển nở.(22) Như thế, CLKPA trở thành tiêu chuẩn đánh giá nét đẹp của đời thánh hiến. Nhưng trước tiên chúng ta cần tìm hiểu những chướng ngại trên đường hình thành nhân cách. 

1/ Chướng ngại

Nếu như những chướng ngại trong phần nhân cách tôn giáo đã làm trì trệ đời sống các tín hữu thì những cản trở trong phần này càng phức tạp hơn vì bao gồm những trở ngại trên và những phát sinh từ đời tu.

2/ Không trung thực

Như chúng ta đã biết nhân cách bao gồm toàn bộ đời sống con người được nhập thể trong một hoàn cảnh cụ thể. Như thế, một nhân cách đích thực đòi hỏi chủ thể phải hội nhập thực sự vào trong từng cảnh huống cuộc sống. Nhưng thực tế, con người vốn yếu đuối nên thường tránh né cách nào đó khi phải đảm nhận đời sống mình. Qua cung cách sống của nhóm tu sĩ này chúng ta dễ nhận ra mặt nạ của họ, rằng với bề trên thì cung phụng, luồng cúi còn với anh em thì kiêu căng, hống hách. Thái độ sống không trung thực này làm cản trở quá trình hình thành nhân cách đích thực. Chắc hẳn, tính đích thực của nhân cách này không hệ tại ở việc nói năng lỗ mãng hay hành động ngông cuồng nhưng tùy thuộc động lực thiêng liêng thúc đẩy họ ứng xử. Xét cho cùng, động lực thúc đẩy nhóm tu sĩ này hành động hoàn toàn mang tính nhân loại. Vì nếu thực tâm tìm Chúa trong đời tu thì họ đã đón nhận những người anh em khác trong cộng đoàn như hồng ân Chúa ban và qua những người này, họ tiến gần đến Chúa. Trái lại, một đàng họ không dám đối diện với bản thân, đàng khác còn coi tha nhân như phương tiện giúp họ thăng tiến. Tắt một lời, khi không dám sống thực với bản thân và tha nhân thì họ tự tạo một rào cản vô hình trong tương quan với Thiên Chúa.

3/ Lệ thuộc

Nếu hiểu nhân cách là một thái độ tự do chọn cho mình một “linh đạo” riêng thì người lệ thuộc lại thoái thác cuộc đời mình cho người khác. Thay vì lý tưởng đời tu hướng dẫn họ xác tín chỉ lệ thuộc vào Chúa, họ lại chạy theo tiếng khen của người đời. Đó là cách người lệ thuộc tìm cách tránh né thế giới nội tâm, con người đích thực của mình. Bù lại, họ hoạt động không ngừng vì tha nhân và cảm thấy hài lòng vì mình là người có giá trị khi làm ích cho người khác. Họ thích được khen mình là người tốt và cố giữ mãi danh hiệu ấy trước mặt người đời. Vấn đề cốt lõi của họ chính là đời sống tâm linh, vì họ không biết mình và yêu mến mình một cách tích cực.(23)

Nếu như nhân cách được đặt trên nền tảng là tính cá vị của mỗi người thì việc người lệ thuộc đi tìm căn tính mình nơi người khác là điều dễ hiểu. Vì họ chưa bao giờ thực sự sống cho mình trong việc đọc ra những nhu cầu bản thân. Thay vào đó, họ phục vụ quên mình đến nỗi sẵn sàng đánh mất bản thân. Chính khi tìm những đánh giá tốt của người khác mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả. Họ ví như người Chúa Giêsu đã cảnh báo: kẻ tìm lời lãi thế gian mà mất mạng sống mình.

4/ Cầu toàn

Nếu hiểu được ước muốn lớn lao của người cầu toàn là tìm kiếm sự tròn đầy ở đời này thì chúng ta dễ nhận ra thái độ sống thiếu thực tế của họ. Họ có tham vọng xếp đặt mọi sự theo một trật tự chủ quan. Điều này có thể hiểu như việc họ giải một bài toán và có sẵn đáp số. Nhưng họ quên một chân lý này con người là một huyền nhiệm. Người ta không thể ngồi yên để tìm đặt ra mọi tình huống trong cuộc sống, rồi tự trả lời bằng những chữ viết vô hồn (kỹ năng sống). Cuộc sống là một cuộc hội nhập từng ngày giữa hiện hữu của mình và hoàn cảnh sống. Kinh nghiệm này người ta phải mua bằng giá máu chứ không phải bằng sự dễ dãi như một đáp số bài toán. Sự giản lược và đóng khung con người trong những khuôn có sẵn chẳng khác gì những người tin vào thuyết tất định. Đó là một sai lầm ! 

Một tu sĩ cầu toàn không bao giờ chấp nhận tình trạng hiện tại của bản thân. Họ phấn đấu và phấn đấu mà không ý thức sự mỏng giòn của thân phận con người. Một khi chỉ dựa vào sức mình mà không cậy vào Chúa, họ mất đi nguồn trợ lực giúp họ sống tròn đầy trong giây phút hiện tại. Họ chỉ chăm chú vào cái bể chứa vĩ đại chứ không để ý từng gáo nước đầy được đổ vào bể ấy. Bể chứa vĩ đại ấy là biểu tượng của một cuộc đời, còn gáo múc nước là phút sống hiện tại. Thay vì sống tràn đầy phút sống hiện tại, người cầu toàn cứ phấn đấu tìm cách đổ đầy bể chứa vô hình. Họ quên một qui tắc vàng: từng phút sống tròn đầy sẽ tạo nên một cuộc sống tròn đầy. Cuối cùng, họ chỉ nhận ra sự bất lực của bản thân mà không ghi nhận những nỗ lực trong từng phút sống. Bởi đó, họ luôn sống trong tình trạng căng thẳng và đầy áp lực. Tác phong lúng túng không giúp họ kiên định trong nhân cách. Hãy múc đầy gáo nước trong từng phút sống của bạn !

Khuynh hướng cầu toàn này lại được hậu thuẫn từ lời mời gọi anh em hãy nên hoàn thiện. Tuy nhiên, họ quên rằng người ta chỉ thực sự trở nên hoàn thiện khi chấp nhận và dám sống với thực trạng con người mình trong từng giây phút. Khi người cầu toàn không biết mình đủ, lại đề ra những dự phóng vượt quá tầm với, họ sẽ sống trong ảo tưởng về những khuôn mẫu hoàn thiện (thần tượng và ngẫu tượng) hơn là dấn thân triệt để sống tròn đầy giây phút hiện tại với tất cả tình yêu.

5/ Ghen tị

Khi so sánh mình với người khác về một điểm nào đó, con người thường bị cám dỗ ghen tị. Có nhiều hình thức ghen tị khác nhau: qua lời nói điêu ngoa hay bằng hành vi lỗ mãng thiếu tế nhị. 

Có hai đối tượng cần khảo sát: người ghen tị và nạn nhân. Trước tiên, người ghen tị được hiểu là người cảm thấy đau đớn, khi thấy người khác có được những gì bản thân thèm muốn. Đồng thời, họ muốn chiếm đoạt điều tốt lành ấy nơi người khác và một khi không đạt được ước nguyện, họ phá bĩnh mọi sự.(24) 

Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đặt để ước muốn nên hoàn thiện trong lòng mọi người. Nghĩa là con người có khuynh hướng nghiêng chiều về sự thiện. Điều này được thánh Augustinô ghi lại trong một lời nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và lòng con vân còn thao thức cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”. Như thế, đích đến của nỗi khát vọng nơi lòng người là Thiên Chúa, Sự Thiện Tuyệt Đối. 

Có thể nói, lòng khát khao ấy là một đòi hỏi chính đáng ! Nhưng thay vì chiếm hữu sự thiện trong mức độ năng lực của bản thân, người ghen tị lại quay sang thèm muốn điều tốt lành nơi người khác. Thật vậy, họ tìm thỏa mãn trong sự vô vọng của con tim. Sự ảo tưởng này làm băng hoại nhân cách của họ.Nhân cách ấy chịu ảnh hưởng của hình ảnh tốt đẹp nơi người kia. 

Trong khi đó, nạn nhân chịu sự ghen tị ấy, chuỗi tâm lý diễn ra phức tạp hơn. Đầu tiên, họ chỉ là đối tượng bị ghen tị nhưng sau đó, họ trở thành nạn nhân của lòng ghen tị. Do không được ưu thế như người kia mà kẻ ghen tị quay sang tìm cách hạ nhục họ. Một khi bị công kích kịch liệt, nạn nhân dần dà cũng nghiêng theo mà nghĩ rằng những điều tốt lành nơi mình chẳng đáng gì. Cuối cùng, họ phủ nhận hoàn toàn những cấu tố trong nhân cách của mình, điều đã khiến cho người khác tỏ lòng ghen tị.(25) 

Tóm lại, dù là kẻ ghen tị hay nạn nhân, nếu không tỉnh thức đủ cũng dễ bị nghiêng chiều theo sự dữ, tình trạng này sẽ làm ảnh hưởng cách nào đó trên nhân cách mỗi người. Ngoài ra, thói xấu này còn vương hại đến sự hiệp nhất của cộng đoàn dòng tu.

Nhìn chung, những chướng ngại trên đều phát xuất từ chính bản thân. Nếu mỗi người thường xuyên phản tỉnh về những hành vi trong vô thức của mình, dần dà sẽ làm chủ được tình thế và ý thức sống đời dấn thân với tất cả sự tự do và yêu thương. 

Còn tiếp...

 

EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.

Nguồn: http://conggiao.info

Trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha nói về những Kitô hữu giả hình, những người không đón nhận men của Thánh Thần, không thể phát triển “ra ngoài.” 

Đức Thánh Cha đã thúc giục: Hãy luôn tiến bước với “men Thánh Thần”, Đấng dẫn tới “gia sản” mà Chúa Giêsu để lại cho tất cả chúng ta. Suy niệm về đoạn Tin Mừng thánh Luca hôm nay, Đức Thánh Cha nói về hai loại người mà bản văn đề cập đến và họ “lớn lên theo cách thức đối ngược nhau.

Chúa Kitô không khoan nhượng cho người giả hình

Chúa Giêsu nói về thứ men làm lớn lên, nhưng cũng có thứ men xấu chỉ gây phá hoại – thứ men cũng làm lớn lên nhưng là “hướng vào trong.” Đó chính là thứ men của người Pharisiêu, của tiến sĩ luật trong đền thờ, của những nhóm Xa-đốc, nghĩa là, những người đạo đức giả. Đó là những người tự khép mình lại. Họ chú ý đến vẻ bề ngoài, họ giả bộ, họ bố thí rồi sau đó liền khua chiêng cho người ta biết. Đối với họ, điều quan trọng là phải giữ kín điều trong lòng, là sự quy kỷ, là sự an toàn của chính họ: khi có một điều gì đó khiến họ gặp khó khăn trở ngại, như một người bị bọn cướp đánh và bị bỏ lại nửa sống nửa chết, hay khi gặp một người phong cùi, họ rẽ sang lối khác, như quy luật bên trong của họ.

Chúa Giêsu bảo thứ men này rất nguy hiểm. Hãy cẩn thận. Đó chính là đạo đức giả. Chúa Giêsu không khoan nhượng với những kẻ đạo đức giả: những người này tỏ ra rất tốt, với những khuôn mẫu giáo dục tốt nữa, nhưng lại có những thói quen xấu bên trong. Và chính Chúa Giêsu nói: nhìn từ bên ngoài, các ông là những người tốt, như những mồ mả tô vôi, nhưng bên trong thì đầy thối rữa, suy đồi và phá huỷ. Thứ men này làm lớn lên nhưng lại hướng vào bên trong: nó là thứ men không có tương lai, bởi trong sự quy kỷ, trong cái vòng luẩn quẩn chỉ nhắm đến mình, không có một tương lai nào. Ngược lại, có một loại người mà ta thấy họ có một loại men khác, một loại men trái ngược: loại men giúp lớn lên hướng ra bên ngoài. Đúng hơn, nó làm bạn lớn lên như người thừa tự, để kế thừa gia sản.

Lời  hứa của một niềm vui vô cùng to lớn

Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô giải thích làm thế nào trong Chúa Kitô chúng ta là những kẻ thừa tự, người được tiền định.” Sự liên đới này dành cho những người “hướng ra bên ngoài.”

Nhiều lần họ làm điều xấu, nhưng sau đó họ tu sửa mình. Nhiều lần họ vấp ngã, nhưng họ lại đứng lên. Nhiều lần họ phạm tội, nhưng họ sám hối. Nhưng họ luôn hướng ra bên ngoài, tới gia sản ấy, bởi đó là điều được hứa ban. Và những người ấy là những con người của niềm vui, bởi họ được ban cho một niềm vui lớn lao: rằng họ sẽ là vinh quang và lời chúc tụng của Thiên Chúa. Và như thánh Phao-lô nói: thứ men của những người này là Thánh Thần, Đấng thúc giục ta trở nên lời ca ngợi vinh quang của Ngài, vinh quang của Thiên Chúa.

Với niềm vui nơi con tim

“Dấu chứng của Chúa Thánh Thần, Đấng được hứa ban là “món tiền ký gửi trong gia sản của chúng ta,” trong lúc mong chờ công cuộc cứu độ hoàn tất. Chính Chúa Giêsu muốn chúng ta “luôn bước đi với men Thánh Thần, Đấng không bao giờ làm ta chỉ hướng vào mình, như các tiến sĩ luật, hay những kẻ giả hình. Thực vậy, Thánh Thần đẩy ta hướng ra những biên cương, những chân trời. Như thế, Chúa Giêsu muốn rằng những Kitô hữu dù trong khó khăn, đau khổ, thất bại, vấp ngã, ta luôn tiến lên với niềm hy vọng “tìm thấy gia sản bởi ta có thứ men là Chúa Thánh Thần. Vì thế, có hai loại người: một là bị sự quy kỷ dẫn lối, chỉ hướng vào bên trong. Người ấy có một loại men, được gọi là vị kỷ, nó lớn mạnh phía bên trong, và chỉ lo tỏ vẻ tốt, tỏ vẻ quân bình: nhưng không tự thấy những thói quen xấu của mình. Họ là những kẻ đạo đức giả. Và Chúa Giêsu nói: Hãy coi chừng, hãy cẩn thận. Một loại người khác là những Kitô hữu: chúng ta cần phải là những Kitô hữu, bởi chúng ta cũng có thể là những Kitô hữu giả hình – những kẻ không sống theo men Thánh Thần. Vì điều này, Chúa Giêsu nhắc chúng ta: Hãy coi chừng men Pharisiêu. Thứ men của Kitô hữu là Thánh Thần, Đấng đẩy ta hướng ra bên ngoài, lớn lên với tất cả những khó khăn trên đường đời, cũng như với tất cả những lỗi phạm, nhưng luôn luôn với niềm hy vọng. Thánh Thần chính là gia sản của niềm hy vọng, của lời ngợi khen, và của niềm vui ấy. Trong con tim mình, những người có men Thánh Thần luôn vui mừng ngay cả trong khó khăn, thách đố. Những người đạo đức giả đã quên mất niềm vui có ý nghĩa gì rồi.

Trần Đỉnh, SJ

Nguồn: https://www.vaticannews.va

 

Đức Thánh Cha: Đừng dính bén với tiền bạc, kiên tâm trong thử thách, và khi cô độc (18.10.18)

Trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến ba cách thức sống nghèo trong đời sống của người Kitô hữu. Ngài cũng nhắc nhớ rằng, trong thời đại này, cũng có nhiều Kitô hữu đang chịu bách hại vì Tin Mừng. 

Có ba lối sống nghèo của những ai được gọi là “môn đệ”: trước hết là không đi vào con đường giàu sang, với một con tim không dính bén với tiền bạc; thứ đến là biết đón nhận những bách hại vì Tin Mừng, dù lớn hay nhỏ, thậm chí là những vu khống; cuối cùng là sự nghèo khó của cô độc, cảm thấy lẻ loi, vào lúc cuối đời. Đoạn Tin Mừng thánh Luca 10, 1 – 9 nói về việc sai 72 tông đồ đi rao giảng trong nghèo khó – không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép – bởi Chúa Giêsu muốn rằng con đường của người môn đệ là nghèo khó. Người môn đệ dính bén với tiền, với giàu sang, không phải là môn đệ thực.

Người môn đệ phải sống nghèo với con tim không dính bén với giàu sang

Cách thức sống nghèo đầu tiên của người môn đệ là không dính bén với tiền bạc và sự giàu có. Đó là điều kiện để bắt đầu hành trình của người môn đệ. Nó bao hàm một “con tim khó nghèo”, đến nỗi nếu trong việc tông đồ, cần những tổ chức và cơ cấu mà dường như cho thấy sự giàu có, hãy sử dụng chúng thật tốt – nhưng đừng dính bén. Thực thế, người thanh niên giàu có trong Tin Mừng đã làm Chúa Giêsu cảm động nhưng anh không thể theo Người bởi con tim anh dính bén với của cải. Nếu bạn muốn theo Chúa Giêsu, hãy chọn con đường nghèo khó và nếu bạn giàu có thì đó là bởi Thiên Chúa đã ban nó cho bạn, để phục vụ người khác, nhưng con tim của bạn, đừng dính bén. Người môn đệ không sợ nghèo khó, mà ngược lại, người ấy cần phải sống nghèo.

Nghèo khó trong việc chịu bách hại vì Tin Mừng

Hình thức thứ hai của việc sống nghèo là việc chịu bách hại. Trong bản văn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi như “những con chiên vào giữa bầy sói.” Cũng thế, ngày nay, có nhiều Kitô hữu chịu bách hại vì Tin Mừng và bị vu khống.

Hôm qua, trong hội trường của Thượng Hội Đồng, một giám mục đến từ một trong những vùng đất đang chịu bách hại kể lại việc một thanh niên công giáo đã bị một nhóm thanh niên cực đoan, chống lại Giáo Hội bắt đi. Anh ấy bị đánh và bị ném xuống một giếng nước. Rồi chúng ném bùn xuống. Cuối cùng, khi bùn lên tới cổ, chúng hỏi: Cho mày nói lần cuối: mày có chối bỏ ông Giêsu Kitô không? – Không. Sau đó chúng ném một hòn đá xuống và giết anh. Tất cả chúng ta đều nghe điều đó. Và việc này không phải ở thế kỷ đầu tiên đâu, nó mới diễn ra cách đây hai tháng thôi. Đó là một ví dụ. Nhưng có rất nhiều Kitô hữu ngày nay đang bị bách hại về thể lý. Ôi! Đó là phạm thượng, hãy treo cổ nó.

Ngày nay, cũng có một hình thức bách hại khác. Việc bách hại của những lời vu khống, của những tin đồn và người Kitô hữu thinh lặng, chịu đau khổ vì sự nghèo khó này. Thỉnh thoảng, cũng cần phải tự vệ để không vướng vào xì-căng-đan. Những bách hại nhỏ nơi hàng xóm, nơi giáo xứ… nhỏ thôi, nhưng chúng là thử thách và một chứng thực: thử thách của một cuộc sống nghèo. Đó là cách thức sống nghèo thứ hai mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi ta.

Cái nghèo của việc cảm thấy bị bỏ rơi

Hình thức sống nghèo thứ ba: đó là sự nghèo khó của cô độc, của việc bị bỏ rơi. Bài Đọc Một ngày hôm nay cho ta một ví vụ. Trong bài trích thư thứ hai gửi cho Timothe, “thánh Phaolo” – một người vốn “không sợ hãi điều gì” kể rằng trong phiên bào chữa đầu tiên tại công đường, không ai giúp ngài cả: “tất cả đều bỏ rơi tôi.” Nhưng ngài lại thêm rằng Thiên Chúa ở cùng ngài và ban cho ngài sức mạnh. Trong lúc bị bỏ rơi của người môn đệ: như nó có thể xảy ra với một chàng trai hay một cô gái 17-20 tuổi, những người với nhiệt huyết của mình, đã từ bỏ giàu sang để theo Chúa Giêsu, và rồi, với sức mạnh và trung tín, hàng ngày họ chịu đựng những vu khống, những bách hại, đố kỵ và ngờ vực, lớn có nhỏ có. Và sau cùng, Thiên Chúa cũng có thể đòi hỏi người môn đệ cô độc đến giờ sau hết.

Cha nghĩ về người cao trọng nhất trong số những người được người nữ sinh ra: Gioan Baotixita. Vị ngôn sứ cao cả: dân chúng đã đến với ngài để chịu phép rửa. Kết cục của ngài thế nào? Một mình, trong lao tù. Các con hãy nghĩ xem, điều gì là ngục tù trong thời đại đó, bởi nếu những thứ trong thời đại này cũng thế, các con hãy nghĩ về điều đó… Cô đơn, bị lãng quên, bị sát hại vì sự yếu đuối của nhà vua, vì sự thù ghét của bà hoàng hậu ngoại tình và vì sự nhất thời của cô gái. Đó là kết cục của một người vĩ đại nhất trong lịch sử. Và không đâu xa, nhiều lần trong những nhà hưu, có rất nhiều linh mục, nữ tu – những người đã dành cả đời để truyền giảng Tin Mừng, họ cảm thấy cô độc, cô độc với Thiên Chúa: không ai nhớ đến họ.

Tất cả môn đệ phải biết cách bước đi trên đường nghèo khó

Một hình thức của nghèo khó mà Chúa Giêsu đã hứa cho chính thánh Phê-rô: “khi anh còn trẻ, anh đi đến nơi anh muốn; nhưng khi đã già, người ta sẽ đưa anh đến nơi anh chẳng muốn.” Vì thế, người môn đệ là người nghèo theo nghĩa không dính bén với của cải, đây là bước đầu tiên. Và người ấy là người nghèo vì kiên tâm trước bách hại lớn nhỏ, và người ấy nghèo bởi sống trong tình trạng bị bỏ rơi cho đến cuối đời. Thực vậy, chính con đường của Chúa Giêsu cũng kết thúc với lời cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Cha ơi, Cha ơi, sao Cha bỏ con?”

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các môn đệ, những linh mục, nữ tu, giám mục, giáo hoàng, giáo dân, để họ có thể biết cách bước đi trên con đường nghèo khó mà Thiên Chúa muốn.

Trần Đỉnh, SJ

Nguồn: https://www.vaticannews.va

Khi chia sẻ với các nữ tu đã hết trẻ nhưng chưa già của một dòng ngày Chúa nhật 11/3 vừa qua, tôi có đề cập đến những yếu tố giúp chúng ta tiếp tục “lớn lên” trong trường đời. Bao lâu còn sống là bấy lâu chúng ta còn phải đổi thay, cải tiến bản thân cho gần hơn với CHÂN THIỆN MỸ. Học hỏi là chuyện cả đời và đem lại cho chúng ta sức sống, niềm vui khám phá… Phải, “Người ta già không phải vì tuổi tác, mà vì người ta ngưng học hỏi”, đây là lời của bà Rose, một sinh viên ở tuổi 87 khi bà được yêu cầu chia sẻ đôi lời nhân kết thúc năm học ở một trường đại học nọ bên xứ Hoa Kỳ. Có lẽ không mấy ai có nghị lực và can đảm theo đuổi ước mơ được vào giảng đường như “cụ” sinh viên nói trên. Tuy nhiều người trong chúng ta không còn có dịp đến trường, nhưng việc học hỏi trên trường đời thì không bao giờ ta hết cơ hội.

Một trong những yếu tố giúp chúng ta duy trì khả năng học hỏi trong trường đời đó là “SUY NGẪM”. Suy ngẫm về những gì mình đã nghe, đã thấy trong cuộc sống hằng ngày với những gì đang diễn ra quanh chúng ta. Khi chia sẻ điều này tôi nhớ tới một lời của Đức cố Tổng giám mục Sài Gòn Phaolô Bùi Văn Đọc, lời tích cực đã soi sáng và định hướng cho tôi, và cho cả chúng ta trong cách ứng xử… Điểm nhấn sáng giá của ngài là luôn nhấn mạnh đến lòng khoan dung: cố gắng sống khoan dung và không nói, không nghe chuyện xấu của ai”. Nói thế không có nghĩa là chính mình không còn vấp váp về lãnh vục này. Có chăng là ý thức hơn mỗi khi mình hay những người chung quanh vấp phạm về điều này thôi. Ngoài ra, những lời ngài dặn dò, dạy bảo chẳng khác gì những giọt nắng giọt sương cho cây đời tôi dần lớn lên.

Trước một sự việc chúng ta có thể có nhiều cách nhìn cũng như nhiều hướng giải quyết. Thật khó xác định đúng sai trước một lời bình luận, vì điều này còn tùy theo chúng ta chọn đứng trên phương diện nào. Cá nhân hay tập thể, lợi ích vật chất hay tinh thần, dựa trên tình hay trên lý… hầu như cách chọn lựa nào cũng có phần sáng và phần tối của nó. Nhưng chúng ta ai cũng biết rằng: có những cái nhìn, những nhận định làm cho người khác tan nát, “chìm xuồng”, buông xuôi hay bị hủy diệt... Cũng có cái nhìn kích thích nỗ lực trỗi dậy, nâng cao phần sáng nơi người khác, làm cho họ dồn sức bước tiếp, vươn lên…

Đức cố Tổng giám mục không chú tâm vào lời đồn hay bàn tán, mà nhìn thẳng vào những gì tích cực, sự đóng góp và lợi ích cho Giáo hội, cho những con người cụ thể. Chắc chắn chúng ta còn có những lý lẽ “thật là chính đáng” để biện minh cho những lập luận của mình, chúng ta có lý để làm điều này điều kia, nhưng mong là những điều ấy giúp nâng người khác dậy.

Càng suy ngẫm ta càng thấy ngài có lý, cái lý của chữ tình, chữ tình của Tin Mừng. “Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững được chăng?”. Chính qua cảm nghiệm thân phận mỏng dòn, mong manh của bản thân, chúng ta càng hiểu thấm thía hơn lòng khoan dung, chạnh thương và TÌNH YÊU của Thiên Chúa là CHA.

Tình yêu phải vô điều kiệnNhưng tình yêu không dừng lại ở cảm xúc. Nếu chỉ cảm thương mà không ra tay hành động thì người Samaria trong Kinh Thánh có khác gì các thày tư tế Lêvi, nhìn rồi tránh, rồi bỏ đi? Số đông chúng ta và ngay cả những bậc cao cả, thần quyền hay thế quyền quá trọng luật lệ đến quên cả bổn phận mình là nhà lãnh đạo, là mục tử, là thầy, là cha, là mẹ các tâm hồn ... , nhất là con của một vị Thiên Chúa Tình yêu. Mối bận tâm sâu xa của Chúa chúng ta không phải là yếu đuối của con người cho bằng lòng nhân: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt 12,7)

Phải, Chúa chúng ta với lòng trắc ẩn, chạnh thương…

  Ngài đã quên Mađalêna là một cô gái làng chơi khét tiếng trong vùng, khi những giọt nước mắt thống hối của cô lăn trên đôi chân đã bao phen bước trên những quãng đường gập ghềnh sỏi đá của xứ Galilê.

  Ngài đã quên người phụ nữ Samaria là một thiếu phụ đã trải qua sáu người đàn ông trong đời, vì có lẽ chưa người nào trong số đó đã thỏa mãn được lòng khát khao một cái gì cao hơn, sâu hơn cho đời mình. Ngài chỉ còn nhớ chị vui mừng, quên cả tủi hờn mà mau mắn chạy loan báo cho bà con láng giềng vì chị đã gặp được mạch nước làm cho chị không bao giờ phải khát nữa.

  Ngài đã quên, đã quên hết một cuộc đời trộm cướp bất hảo của tên trộm bên cạnh Ngài khi ông nhận ra Ngài là ai, và hứa hạnh phúc thiên đàng cho lòng thành đó “ngay hôm nay”.

  Ngài đã quên sự thờ ơ lạnh lùng, đang tâm chối thầy không phải trước kẻ quyền lực mà là trước một “đứa đầy tớ gái”; lời chối của người bạn thân Phêrô, người đã từng theo mình trên mọi nẻo đường, đã từng chia ngọt sẻ bùi qua những biến cố thăng trầm của đời Ngài.

  Ngài đã quên trong phút cô đơn tuyệt vọng nhất trong đêm ở vườn Cây Dầu, các bạn thân đều ngủ cả đến nỗi Ngài phải thốt lên trong đau xót: “Anh không thức được với thầy một giờ sao? và rồi dưới chân thánh giá, người bạn, người môn đệ đã từng thề nguyền “không bao giờ bỏ thầy” nay chẳng thấy bóng dáng đâu cả.

  Ngài đã quên thái độ đằng đằng sát khí của Phaolô khi tự nguyện đi bắt bớ các Kitô hữu đầu tiên của Ngài và nay đã dùng lòng nhiệt thành đó của ông để đi loan báo về Ngài.

  Ngài đã quên sự cứng lòng, tính đa nghi của Tôma, khi không ngại chỉ cho ông những vết tích của cuộc thương khó.

  Ngài đã quên tính nhẹ dạ hời hợt của các tông đồ sớm quay về làng trước sự kiện Ngài đã chết, hay tính nhát đảm trốn tránh trong nhà vì sợ liên lụy của các môn đồ mình đã tuyển chọn.

  Ngài đã quên, đã quên hếtquên hết sự phản bội của người bạn thân nhất vì những giọt nước mắt thống hối và đã trao trả lại niềm tin của Ngài cho Phêrô khi trao cho ông trách nhiệm chăm sóc Giáo hội và cả đàn chiên của Ngài.

Tình yêu là thế đó, Đức Kitô là thế đó! Và Đức cố Tổng giám mục Phaolô, người của Chúa là thế đó!

  Chỉ có tình yêu mới dám tin tưởng lại, mới bỏ qua và tha thứ.

  Chỉ có tình yêu mới có sức mạnh để quên, để bắt đầu lại, và để “chơi đẹp” và sống đẹp như thế!

Đức cố Tổng giám mục Phaolô của chúng ta đã sống đẹp theo gương thầy chí Thánh mà Ngài đã một đời gắn bó. Chính khi sống với tấm lòng nhân ái ngài mới dám “chơi đẹp” như Thầy mình. Làm sao để có được một con tim chạnh thương như người CHA giàu lòng thương xót, để khi đi đến cuối đường đời, chúng ta đều có thể mỉm cười mãn nguyện vì: Chuyến đi chung của chúng ta trong cõi đời này rất ngắn… chỉ có tình thương để lại đời thôi!

Thật vậy, đâu cần buồn đau, cãi cọ hay lên án xét nét nhau vì những chuyện nhỏ nhặt: mọi thứ cứ để nó nhẹ nhàng tự nhiên…

Chuyện kể rằng, một thiếu nữ đang ngồi trên xe buýt. Một người phụ nữ mang đủ thứ lỉnh kỉnh, miệng lẩm bẩm, đến ngồi bên cạnh cô, xô mạnh cô. Bất bình, anh thanh niên bên cạnh hỏi tại sao cô không phản đối và bảo vệ quyền lợi của mình. Cô mỉm cười và trả lời: “Đâu cần phải cãi cọ vì những chuyện nhỏ như thếcó đi chung với nhau lâu đâu!Trạm tới, tôi xuống rồi!”

Ta có sống, “có đi chung với nhau lâu đâu!”  nặng lòng bởi những chuyện bất ưng trong đời. Trịnh Công Sơn thì xem đời này như “quán trọ”, theo cái nhìn của Phật giáo, đời là vô thường. Mọi sự đều tạm bợ, chóng phai, chóng tàn… Tinh thần Kitô giáo xem cõi này là đời tạm, quê thật của chúng ta không phải nơi đây.

Hoa đẹp... hoa thơm... hoa vẫn tàn

Tình nặng... tình sâu... tình vẫn tan

Rượu đắng... rượu cay... rượu vẫn hết

Người hứa... người thề... người vẫn quên

Trăng lên...trăng tròn... trăng lại khuyết

Tuyết rơi... tuyết phủ... tuyết lại tan

… Người đẹp... người xấu... rồi cũng chết

Người giàu... người nghèo... rồi cũng hết...

(không biết tác giả)

Phải, bụi thời gian làm mờ đi tất cả... Chỉ có TÌNH NGƯỜI còn mãi trong ta...!!!

Không ai biết được chuyến đi của đời mình dài bao lâu! Người dù thương dù ghét, biết mai này có còn gặp lại hay không? Còn gặp nhau bao lâu nữa? Biết đâu trạm tới mình hay người kia đã phải xuống rồi. Đường đi chung với nhau có lâu đâu?

Đức cố Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã thể hiện tấm lòng bao dung trong cách sống và ứng xử của ngài. Đời ngài giúp chúng ta SUY NGẪM học hỏi và càng xác tín hơn vào lòng CHA chúng ta trên trời. Một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình thương và lòng thành tín” (Xh 34,6) Đấng mà ngài đã một đời yêu mến, hiến thân và noi gương.

Còn chúng ta? có lẽ chúng ta cần nhận ra đâu là những điều thật sự trân quý và đâu là những điều chúng ta không cần phải bận tâm.

 Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà

Nguồn: http://hdgmvietnam.org