Là một nữ tu duyên dáng và tài giỏi, sơ được nhiều người quý mến. Trong hành trình dâng hiến, sơ luôn bám vào Thiên Chúa để lấy sức mạnh chống lại những cám dỗ đời thường. Nhưng không vì thế mà đời tu trì của sơ luôn thuận buồm xuôi gió. Có lần sơ chia sẻ: “Trong sơ luôn có những giằng co về đời tu và đời sống gia đình.” Dĩ nhiên sơ luôn dành cho Thiên Chúa tình yêu đủ lớn, nhưng tình cảm nam nữ cũng khiến sơ xuyến xao.

Không ít lần sơ nhận được những lời tỏ tình dễ thương, kể cả những lời đùa cợt, hoặc những lần chính sơ cũng rung động trước một đối tượng nào đó. Sơ thừa nhận với Chúa rằng đó thực sự là gánh nặng của một người nữ tu. Sơ cầu nguyện rất nhiều. Sơ bám vào đời sống cộng đoàn và chạy đến với những người có thể giúp sơ. Đúng là những chuyện tình cảm giữa người nam và người nữ luôn có sức hút mãnh liệt khiến sơ nhiều khi mệt nhoài. Tạ ơn Thiên Chúa đã đặt để trong mỗi con người bản năng yêu thương và cần được thương yêu. Chính món quà giới tính mà người nam và người nữ có thể đến được với nhau và nên nghĩa vợ chồng.

Khi đi tu, bản năng ấy dĩ nhiên không tự dưng biến mất, nhưng vẫn nằm ngay trong tâm trí người tu sĩ. Do đó sơ đừng hoang mang vì những cảm xúc rung động ấy. Có linh mục nói vui rằng bản năng ấy chỉ mất đi sau khi chúng ta chết được 5 phút! Tuy vậy khi bước vào đời tu, Giáo Hội và nhà Dòng có nhiều phương cách để giúp cho người tu sĩ vượt qua được những khó khăn ấy. Có người hạnh phúc chấp nhận đánh đổi để bản năng ấy biến thành tình yêu Thiên Chúa và dành cho mọi người. Có người không phù hợp với những đòi hỏi về độc thân khiết tịnh trong đời tu. Họ chuyển hướng để xây dựng tổ ấm uyên ương. Điều khó là sơ cảm thấy mình đang đứng giữa ngã ba của hai dòng cảm xúc. Những hấp dẫn của tình yêu đôi lứa dường như không đủ sức để sơ từ bỏ đời tu. Bởi đó sơ vẫn dấn thân mỗi ngày trước lời gọi của Thầy Giêsu. Tuy nhiên, sơ thừa nhận rằng trái tim của mình chưa thực sự dành trọn cho Thiên Chúa, vì còn những rung động tự nhiên ấy. Khả năng làm mẹ chỗi dậy nơi một người nữ tu như sơ, nhu cầu yêu và được yêu trỗi lên trong sơ. Một cảm giác thật là lạ. Sau những lần ấy, sơ nhận ra đó chỉ là thử thách vốn có trên con đường bước theo Giêsu trong đời sống tu trì.

Sơ thân mến,

Nhiều người nói vui rằng Thiên Chúa thường chọn người đẹp, dễ thương để bước vào đời tu. Lời ấy phần nào đúng bởi tu sĩ được huấn luyện để phục vụ Thiên Chúa nơi tha nhân. Họ cần nhiều hành trang để mang Tin Mừng đến với tha nhân và cảm hóa người ta. Theo đó họ được học hành, tu sửa mình để phù hợp với con đường của Chúa. Rồi trong hành trình này, Thiên Chúa cũng có cách để hướng dẫn và trợ giúp người tu sĩ vượt qua những cám dỗ cuộc đời. Nhất là chuyện tình cảm nam nữ, có khi mạnh đến nỗi ta chẳng thể vượt qua, nhưng tình yêu dành cho Thiên Chúa lại trở nên một điểm tựa tuyệt vời để người tu sĩ bước tiếp. Sẽ là ảo tưởng nếu nói rằng người tu sĩ không còn rung động tình cảm với một người khác giới! Có chăng rung động ấy đến vội, và hy vọng họ biết cách để nó cũng nhanh chóng phai nhòa. Bởi một khi bám vào lời gọi của Chúa, yêu mến Chúa thật nhiều, thì những thứ kia tự nhiên trở nên nhẹ nhàng hơn.

Là tu sĩ trẻ, tôi hiểu chuyện tình cảm ấy khiến người tu sĩ vất vả để đương đầu. Có lần vị linh hướng chia sẻ rằng thay vì cứ chú tâm vào những cám dỗ, những rung động tình cảm ấy, thật hữu ích để tập trung vào những điều cao quý hơn. Nghĩa là, đời sống của người tu sĩ còn nhiều điều thú vị khác cần khám phá: cộng đoàn, sứ vụ, học tập, cầu nguyện, chia sẻ, v.v. Tôi tin những môi trường ấy có thể giúp cho người tu sĩ nhận ra những giá trị đích thực mà họ đang theo đuổi. Trong đó người tu sĩ sống hạnh phúc với những đòi hỏi độc thân vì Nước Trời. Bởi “những ai theo Chúa Giêsu sát hơn tất nhiên họ hiểu rằng Người phải được yêu mến với một trái tim không chia sẻ, và mình phải dâng hiến cho Người tất cả cuộc sống chứ không phải chỉ vài cử chỉ, vài mảnh thời gian hay vài công việc.” (Vita consecrata, số 104).

Với câu chuyện của sơ, tôi đọc lại những lời thú vị của Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến: “Đời thánh hiến cần phải nêu lên cho thế giới ngày nay những gương sáng của những người nam và người nữ sống đức khiết tịnh mà vẫn quân bình, làm chủ được chính mình, có sáng kiến, trưởng thành tâm linh và tình cảm.” (số 88). Thách đố, nhưng cần thiết biết bao, sơ nhỉ! Đó là lý tưởng của một người tu sĩ tốt lành, là ước mơ của chính Thầy Giêsu. Dù khó khăn còn đó, nhưng hy vọng mỗi ngày sơ cũng như mỗi người tu sĩ tìm thấy niềm vui trong Chúa Giêsu. Để trong tâm thế đó, người tu sĩ có thể trân quý tình cảm nam nữ rất đỗi tự nhiên, nhưng họ lại có một mối tình khác mang tên Giêsu. Người tu sĩ biết mình thuộc về Giêsu, và sống với Giêsu. Được như thế, những lần rung động trước một ai đó, ước mong người tu sĩ vượt qua để bước tiếp.

Chúng ta cùng cầu nguyện cho những nam, nữ tu sĩ. Dẫu cho đời tu còn nhiều thách đố, lắm gian nan và còn sức nặng của thập giá, nhưng chính ngọn lửa yêu mến đã thắp lên cho tu sĩ nguồn sáng của bình an và hạnh phúc trong đời sống hiến dâng.

Lạy Chúa Giêsu – người tình đặc biệt của người tu sĩ, xin tiếp tục thắp lên ngọn lửa tình của Ngài để nung nấu trái tim của những người sống đời hiến dâng. Nhờ đó, mỗi tu sĩ có thể luôn rạng ngời niềm vui, ngập tràn tình yêu vì được bén rễ sâu trong tình thương của Đấng họ đang bước theo. Nếu lúc nào đó tình yêu trong họ vơi đi, sức hấp dẫn của đời tu yếu dần, xin Chúa mau đến đến và ở lại trong trái tim họ. Kể cả những lúc chuyện tình cảm nam nữ bủa vây người tu sĩ, xin Chúa đến giúp họ biết đâu là ơn gọi đích thực để họ được hạnh phúc. Ước mong từ đó, các tu sĩ của Chúa được hồi sinh và tiếp tục yêu hết mình và tu hết tình.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Nguồn: https://dongten.net

Khi chia sẻ với các nữ tu đã hết trẻ nhưng chưa già của một dòng ngày Chúa nhật 11/3 vừa qua, tôi có đề cập đến những yếu tố giúp chúng ta tiếp tục “lớn lên” trong trường đời. Bao lâu còn sống là bấy lâu chúng ta còn phải đổi thay, cải tiến bản thân cho gần hơn với CHÂN THIỆN MỸ. Học hỏi là chuyện cả đời và đem lại cho chúng ta sức sống, niềm vui khám phá… Phải, “Người ta già không phải vì tuổi tác, mà vì người ta ngưng học hỏi”, đây là lời của bà Rose, một sinh viên ở tuổi 87 khi bà được yêu cầu chia sẻ đôi lời nhân kết thúc năm học ở một trường đại học nọ bên xứ Hoa Kỳ. Có lẽ không mấy ai có nghị lực và can đảm theo đuổi ước mơ được vào giảng đường như “cụ” sinh viên nói trên. Tuy nhiều người trong chúng ta không còn có dịp đến trường, nhưng việc học hỏi trên trường đời thì không bao giờ ta hết cơ hội.

Một trong những yếu tố giúp chúng ta duy trì khả năng học hỏi trong trường đời đó là “SUY NGẪM”. Suy ngẫm về những gì mình đã nghe, đã thấy trong cuộc sống hằng ngày với những gì đang diễn ra quanh chúng ta. Khi chia sẻ điều này tôi nhớ tới một lời của Đức cố Tổng giám mục Sài Gòn Phaolô Bùi Văn Đọc, lời tích cực đã soi sáng và định hướng cho tôi, và cho cả chúng ta trong cách ứng xử… Điểm nhấn sáng giá của ngài là luôn nhấn mạnh đến lòng khoan dung: cố gắng sống khoan dung và không nói, không nghe chuyện xấu của ai”. Nói thế không có nghĩa là chính mình không còn vấp váp về lãnh vục này. Có chăng là ý thức hơn mỗi khi mình hay những người chung quanh vấp phạm về điều này thôi. Ngoài ra, những lời ngài dặn dò, dạy bảo chẳng khác gì những giọt nắng giọt sương cho cây đời tôi dần lớn lên.

Trước một sự việc chúng ta có thể có nhiều cách nhìn cũng như nhiều hướng giải quyết. Thật khó xác định đúng sai trước một lời bình luận, vì điều này còn tùy theo chúng ta chọn đứng trên phương diện nào. Cá nhân hay tập thể, lợi ích vật chất hay tinh thần, dựa trên tình hay trên lý… hầu như cách chọn lựa nào cũng có phần sáng và phần tối của nó. Nhưng chúng ta ai cũng biết rằng: có những cái nhìn, những nhận định làm cho người khác tan nát, “chìm xuồng”, buông xuôi hay bị hủy diệt... Cũng có cái nhìn kích thích nỗ lực trỗi dậy, nâng cao phần sáng nơi người khác, làm cho họ dồn sức bước tiếp, vươn lên…

Đức cố Tổng giám mục không chú tâm vào lời đồn hay bàn tán, mà nhìn thẳng vào những gì tích cực, sự đóng góp và lợi ích cho Giáo hội, cho những con người cụ thể. Chắc chắn chúng ta còn có những lý lẽ “thật là chính đáng” để biện minh cho những lập luận của mình, chúng ta có lý để làm điều này điều kia, nhưng mong là những điều ấy giúp nâng người khác dậy.

Càng suy ngẫm ta càng thấy ngài có lý, cái lý của chữ tình, chữ tình của Tin Mừng. “Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững được chăng?”. Chính qua cảm nghiệm thân phận mỏng dòn, mong manh của bản thân, chúng ta càng hiểu thấm thía hơn lòng khoan dung, chạnh thương và TÌNH YÊU của Thiên Chúa là CHA.

Tình yêu phải vô điều kiệnNhưng tình yêu không dừng lại ở cảm xúc. Nếu chỉ cảm thương mà không ra tay hành động thì người Samaria trong Kinh Thánh có khác gì các thày tư tế Lêvi, nhìn rồi tránh, rồi bỏ đi? Số đông chúng ta và ngay cả những bậc cao cả, thần quyền hay thế quyền quá trọng luật lệ đến quên cả bổn phận mình là nhà lãnh đạo, là mục tử, là thầy, là cha, là mẹ các tâm hồn ... , nhất là con của một vị Thiên Chúa Tình yêu. Mối bận tâm sâu xa của Chúa chúng ta không phải là yếu đuối của con người cho bằng lòng nhân: “Ta muốn lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt 12,7)

Phải, Chúa chúng ta với lòng trắc ẩn, chạnh thương…

  Ngài đã quên Mađalêna là một cô gái làng chơi khét tiếng trong vùng, khi những giọt nước mắt thống hối của cô lăn trên đôi chân đã bao phen bước trên những quãng đường gập ghềnh sỏi đá của xứ Galilê.

  Ngài đã quên người phụ nữ Samaria là một thiếu phụ đã trải qua sáu người đàn ông trong đời, vì có lẽ chưa người nào trong số đó đã thỏa mãn được lòng khát khao một cái gì cao hơn, sâu hơn cho đời mình. Ngài chỉ còn nhớ chị vui mừng, quên cả tủi hờn mà mau mắn chạy loan báo cho bà con láng giềng vì chị đã gặp được mạch nước làm cho chị không bao giờ phải khát nữa.

  Ngài đã quên, đã quên hết một cuộc đời trộm cướp bất hảo của tên trộm bên cạnh Ngài khi ông nhận ra Ngài là ai, và hứa hạnh phúc thiên đàng cho lòng thành đó “ngay hôm nay”.

  Ngài đã quên sự thờ ơ lạnh lùng, đang tâm chối thầy không phải trước kẻ quyền lực mà là trước một “đứa đầy tớ gái”; lời chối của người bạn thân Phêrô, người đã từng theo mình trên mọi nẻo đường, đã từng chia ngọt sẻ bùi qua những biến cố thăng trầm của đời Ngài.

  Ngài đã quên trong phút cô đơn tuyệt vọng nhất trong đêm ở vườn Cây Dầu, các bạn thân đều ngủ cả đến nỗi Ngài phải thốt lên trong đau xót: “Anh không thức được với thầy một giờ sao? và rồi dưới chân thánh giá, người bạn, người môn đệ đã từng thề nguyền “không bao giờ bỏ thầy” nay chẳng thấy bóng dáng đâu cả.

  Ngài đã quên thái độ đằng đằng sát khí của Phaolô khi tự nguyện đi bắt bớ các Kitô hữu đầu tiên của Ngài và nay đã dùng lòng nhiệt thành đó của ông để đi loan báo về Ngài.

  Ngài đã quên sự cứng lòng, tính đa nghi của Tôma, khi không ngại chỉ cho ông những vết tích của cuộc thương khó.

  Ngài đã quên tính nhẹ dạ hời hợt của các tông đồ sớm quay về làng trước sự kiện Ngài đã chết, hay tính nhát đảm trốn tránh trong nhà vì sợ liên lụy của các môn đồ mình đã tuyển chọn.

  Ngài đã quên, đã quên hếtquên hết sự phản bội của người bạn thân nhất vì những giọt nước mắt thống hối và đã trao trả lại niềm tin của Ngài cho Phêrô khi trao cho ông trách nhiệm chăm sóc Giáo hội và cả đàn chiên của Ngài.

Tình yêu là thế đó, Đức Kitô là thế đó! Và Đức cố Tổng giám mục Phaolô, người của Chúa là thế đó!

  Chỉ có tình yêu mới dám tin tưởng lại, mới bỏ qua và tha thứ.

  Chỉ có tình yêu mới có sức mạnh để quên, để bắt đầu lại, và để “chơi đẹp” và sống đẹp như thế!

Đức cố Tổng giám mục Phaolô của chúng ta đã sống đẹp theo gương thầy chí Thánh mà Ngài đã một đời gắn bó. Chính khi sống với tấm lòng nhân ái ngài mới dám “chơi đẹp” như Thầy mình. Làm sao để có được một con tim chạnh thương như người CHA giàu lòng thương xót, để khi đi đến cuối đường đời, chúng ta đều có thể mỉm cười mãn nguyện vì: Chuyến đi chung của chúng ta trong cõi đời này rất ngắn… chỉ có tình thương để lại đời thôi!

Thật vậy, đâu cần buồn đau, cãi cọ hay lên án xét nét nhau vì những chuyện nhỏ nhặt: mọi thứ cứ để nó nhẹ nhàng tự nhiên…

Chuyện kể rằng, một thiếu nữ đang ngồi trên xe buýt. Một người phụ nữ mang đủ thứ lỉnh kỉnh, miệng lẩm bẩm, đến ngồi bên cạnh cô, xô mạnh cô. Bất bình, anh thanh niên bên cạnh hỏi tại sao cô không phản đối và bảo vệ quyền lợi của mình. Cô mỉm cười và trả lời: “Đâu cần phải cãi cọ vì những chuyện nhỏ như thếcó đi chung với nhau lâu đâu!Trạm tới, tôi xuống rồi!”

Ta có sống, “có đi chung với nhau lâu đâu!”  nặng lòng bởi những chuyện bất ưng trong đời. Trịnh Công Sơn thì xem đời này như “quán trọ”, theo cái nhìn của Phật giáo, đời là vô thường. Mọi sự đều tạm bợ, chóng phai, chóng tàn… Tinh thần Kitô giáo xem cõi này là đời tạm, quê thật của chúng ta không phải nơi đây.

Hoa đẹp... hoa thơm... hoa vẫn tàn

Tình nặng... tình sâu... tình vẫn tan

Rượu đắng... rượu cay... rượu vẫn hết

Người hứa... người thề... người vẫn quên

Trăng lên...trăng tròn... trăng lại khuyết

Tuyết rơi... tuyết phủ... tuyết lại tan

… Người đẹp... người xấu... rồi cũng chết

Người giàu... người nghèo... rồi cũng hết...

(không biết tác giả)

Phải, bụi thời gian làm mờ đi tất cả... Chỉ có TÌNH NGƯỜI còn mãi trong ta...!!!

Không ai biết được chuyến đi của đời mình dài bao lâu! Người dù thương dù ghét, biết mai này có còn gặp lại hay không? Còn gặp nhau bao lâu nữa? Biết đâu trạm tới mình hay người kia đã phải xuống rồi. Đường đi chung với nhau có lâu đâu?

Đức cố Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã thể hiện tấm lòng bao dung trong cách sống và ứng xử của ngài. Đời ngài giúp chúng ta SUY NGẪM học hỏi và càng xác tín hơn vào lòng CHA chúng ta trên trời. Một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình thương và lòng thành tín” (Xh 34,6) Đấng mà ngài đã một đời yêu mến, hiến thân và noi gương.

Còn chúng ta? có lẽ chúng ta cần nhận ra đâu là những điều thật sự trân quý và đâu là những điều chúng ta không cần phải bận tâm.

 Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà

Nguồn: http://hdgmvietnam.org

 Mạng xã hội bủng nổ cách khủng khiếp đến độ khó ngờ để rồi không cần phải nhiều lời, ngày nay, nhiều người, nhiều gia đình phải dối diện với cơn lốc của mạng xã hội. Không chỉ người đời bị ảnh hưởng nhưng cả thế giới của những người tu cũng cùng chung chia với cơn lốc mạng xã hội ấy.

Mạng xã hội, như con dao hai lưỡi. Nó có mặt trái cũng có mặt phải và có mặt tốt cũng có mặt xấu. Chuyện quan trọng vẫn là người dùng mạng xã hội.
Liên quan đến mạng xã hội đó chính là chiếc chiếc smart-phone . Nhiều lần, nhiều nhà tu đã đặt vấn nạn về chiếc smart-phone. Chiếc smart-phone đã gây tranh cãi trong nhiều cuộc họp, nhiều cộng đoàn và nhiều cá nhân trong cộng đoàn tu nữa. Chiếc smart-phone không có lỗi, lỗi hay không cũng là do cách sử dụng, cách làm chủ của người sử dụng.
Không ai có thể phủ nhận được sự thuận lợi của chiếc smart-phone hay mạng xã hội. Thế nhưng bên cạnh cái tiện lợi và phải nói quá tiện lợi thì cũng nảy sinh ra quá nhiều vấn đề phát sinh.
Ai ai cũng phải thừa nhận rằng mạng xã hội chính là ảo. Đơn giản là trên đó, tất cả những thông tin, hình ảnh mà người ta dùng chưa chắc là thật. Có những bức hình minh họa xem ra cười ra nước mắt vì bên kia nàng hẹn chàng và cho nhau biết tuổi cũng ngang nhau nhưng khi tiếp cận thì dở khóc dở cười vì chàng còn quá trẻ mà nàng đã ... quá già.
Ngày hôm nay, con người bị sức lôi cuốn vô hình của các phương tiện truyền thông, các thông tin trên đó nữa. Cứ có một chuyện gì, chỉ cần mở điện thoại lên và vào mạng xã hội thì mạng xã hội sẽ cập nhật cũng như chuyển thông tin đến một cách nhanh nhất.
Vừa rồi, face-book đã cho một tính năng mà dân chơi “phây” cảm thấy rất hài lòng là cho chiếu trực tiếp. Nghĩa là ở bất cứ nơi đâu, miễn sao có mạng là có thể phát hình và phát tiếng cho những người bạn của mình cùng xem.
Lợi đâu chưa thấy nhưng đã để lại những ai oán đau lòng. Có khi người ta xem rồi thì người ta mới buộc miệng nói : “giá như đừng xem thì hay hơn !”. Và đáng tiếc thay là có những đoạn video-clip rất riêng tư, lẽ ra nó không được cho lên công cộng thì nó lại xuất hiện một cách nhẹ nhàng và thanh thản cho công chúng dòm.  

Đi vào vấn đề chính là tương quan giữa mạng xã hội với nhà tu. Hẳn nhiên, nhà tu cũng là con người nhưng rồi nó sẽ mang điều gì lợi. Chắc chắn, ai ai cũng sẽ đấu tranh và đưa ra lý lẽ của mình để bảo vệ việc mình tham gia mạng xã hội. Thế nhưng, người đấu tranh đó đã quên đi căn tính và ơn gọi của mình là tu sĩ.
Thử ngồi tính tổng quỹ thời gian một ngày có được một cách chân thành và nghiêm túc nhé ! Thử xem, mỗi tu sĩ có một ngày bao nhiêu thời gian trống ?
Nếu là sinh viên đi học thì dường như tất cả thời gian dành cho học tập, kinh nguyện. Khoảng trống thật sự của một ngày của một tu sĩ chả có là bao nữa.
Nếu là một nữ tu giữ trẻ thì tất bật từ sáng cho đến tối để lo chu toàn nhiệm vụ. Có khi, thời gian lo công việc nhiều đến độ đến giờ cầu nguyện hay Thánh Lễ, có vị còn phải “ngất trí” và “ngủ trong Chúa”.
“Con trai yêu bằng mắt” còn “con gái yêu bằng tai”. Chính vì lẽ đó, những lời ngon giọng ngọt trên các mạng xã hội được bao nhiêu phần đúng để nghe theo. Ngay trong thực tế cuộc sống, đứa bạn học ngồi gần nhau hay đứa trẻ cung sinh hoạt chung một nhóm với nhau và có thể gặp nhau mỗi ngày nhưng thử hỏi ta có san sẻ được chút gì tâm tư cho người đó không ? Thế nhưng mà, có một số người lại cảm thấy thoải mái, an toàn và tự ru êm mình trong những dòng chữ, hình ảnh ... hiện lên trên máy tính hay điện thoại.
Chiếc smart-phone hay mạng xã hội vô tình hay hữu ý đã làm mất một số ơn gọi. Đơn giản là người sử dụng nó đã để nó điều khiển mình và cuối cùng đời tu cứ mãi lê lết cho đến ngày phải chia tay với lý tưởng, với ơn gọi cao quý mà cả đời mình theo đuổi.
Một nữ tu bộc bạch : “Tối đến, nhận được tin nhắn có cánh. Nếu không trả lời cũng không được mà trả lời cũng không xong. Đêm nào mà nhận tin nhắn như thế thì đêm đó ngủ không yên”. Một lời tâm sự hết sức chân thành. Chính vì tin nhắn có cánh đó đã làm cho sơ lòng động lòng lo. Nếu như sơ không giữ bên mình chiếc điện thoại vào lúc nữa đêm có lẽ sơ sẽ đi vào giấc ngủ dễ hơn và lòng thanh thản hơn với ơn gọi mình chọn.
Một tu sinh chuẩn bị vào Chủng Viện, một tối kia, xin tôi tạt một xô nước lạnh vào người em bởi cơn giận đang bừng bừng trong em. Em không ngần ngại là bị người đồng giới quấy rối. Đáng tiếc là trong đó trên dưới 10 người là ... Em nói trong cơn giận : “Chả lẽ Giáo Hội bây giờ như vậy sao ? Tin ai bây giờ ! Em có nói với mấy người đó, nếu còn như vậy thì em sẽ công khai danh tính ...”.
Hy vọng đây là một trong những trường hợp cá biệt bởi lẽ nếu cứ đà này thì thật, Giáo Hội sẽ không biết đi về đâu.
Khi ta nhìn vào chiếc smart-phone và mạng xã hội, ít nhiều gì đó ta cũng nhận ra được cái lợi, cái hại của nó. Ắt hẳn nó không hoàn toàn có hại và ngược lại. Chuyện quan trọng là ta, ta là chủ nó hay nó là chủ ta.
Nhiều lần đi ăn quán hay uống cà phê với bè bạn, tôi đã tận mắt nhìn thấy 2 vợ chồng và 2 đứa con, tay trong tay mỗi người một cái ipad hay điện thoại. Sau khi hội ý chung với nhau về món đã chọn và rồi mạnh ai nấy điều khiển cái máy của mình. Người ta sống chung với nhau một nhà, ăn chung một mâm mà còn bị tác hại của chiếc smart-phone là như thế.
Ngay cả như đi nhà thờ, một số người vẫn hiện diện trước Nhan Thánh Chúa đó nhưng trong tay vẫn cầm giữ chiếc smart-phone và đợi chờ ... tin nhắn. Có người không ngần ngại trả lời điện thoại cách to tiếng trong nhà thờ, khi tham dự Thánh Lễ và cả khi ... đang lên rước lễ nữa.
Có một nữ tu vừa tuyên khấn trọn đời, khi về thăm gia đình, bà cố thấy cục cưng của mình xài điện thoại cùi bắp thương xót bèn đòi mua chiếc chiếc smart-phone cho con gái. May mắn rằng nữ tu ấy đáp trả lại tiếng “Thưa Không”.
Lý giải cho tiếng “Thưa Không” của mình, nữ tu ấy nhẹ nhàng nói : “Con cảm thấy cũng không cần thiết để dùng nó làm gì. Có khi nó làm cho mình nặng bước trên đường tu hơn. Con thấy con xài điện thoại cùi bắp thì cũng chả mất mát gì đâu ...”
Chắc có lẽ nữ tu ấy lường trước được sức chịu đựng của mình hay muốn cho lòng mình nhẹ nhàng thanh thoát với xu hướng chung của thời đại nên đã từ chối trang bị cho mình thứ mà ngày nay ai cũng có. Và chắc có lẽ nữ tu ấy muốn mình đi tu được thanh thản hơn khi phải cứ bị mạng xã hội làm tác động.
Với nhà tu, có lẽ phải thận trọng hơn nữa với người đời khi đối diện với mạng xã hội. Người tu cần hết sức thận trọng và cân nhắc để dùng.
Chiếc smart-phone hay mạng xã hội không có tội. Tội hay chăng là do người dùng và điều khiển nó mà thôi. Những ước mong nhà tu thận trọng hơn khi chọn lựa cho mình chiếc điện thoại cũng như thận trọng hơn khi bước vào thế giới của mạng xã hội : facebook – viber – zalo ... Khi ta bước đi nhẹ nhàng thanh thản không dính dáng với công nghệ cao chắc có lẽ đời tu ta nó cũng nhẹ nhàng và thanh thoát hơn. Chính khi nhẹ nhàng và thanh thản với những trang bị hiện đại tối tân cũng chính là khi ta nhẹ nhàng bước đi theo Chúa hơn trên con đường ta chọn.


Người Giồng Trôm
http://baoconggiao.net

Câu trả lời cho những ai tìm chia rẽ là im lặng

fr.zenit.org, Anne Kurian, 2018-09-03

Trong thánh lễ cử hành ở Nhà nguyện Thánh Marta sáng thứ hai 3 tháng 9 – 2018, Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Sự thật thì nhẹ nhàng, sự thật thì thinh lặng”. Với những người đi tìm “tai tiếng và chia rẽ”, câu trả lời là “thinh lặng và cầu nguyện”.

Hôm nay là ngày “tựu trường” sau kỳ hè, Đức Phanxicô dâng thánh lễ và giảng lễ hàng ngày ở Nhà nguyện Thánh Marta như thường lệ. Ngài giảng theo theo bài Phúc Âm Thánh Luca (Lc 4, 16-30), ngài mời gọi chúng ta “suy nghĩ để hành động trong đời sống hàng ngày khi có các ngộ nhận” để hiểu” làm thế nào mà ma quỷ, bậc thầy của nói dối, của tố cáo đã hành động để phá hủy sự hợp nhất của một gia đình, một dân tộc”.

Đức Phanxicô giảng, khi Chúa Giêsu giảng ở hội đường, Ngài chỉ dùng “Lời Chúa” cùng với Lời Chúa là thinh lặng, Ngài đã thắng “những con chó hoang dại”, những “con quỷ” đã gieo dối trá vào trong tâm hồn” con người.

Không ai là tiên tri ở quê mình

Đức Phanxicô giảng tiếp: “Không phải là con người, nhưng là một đàn chó hoang đã đuổi Chúa Giêsu ra khỏi thành phố. Họ không lý luận, họ la hét. Họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi, Ngài đi theo con đường của mình”. Và Chúa Giêsu qua sự im lặng của mình, Ngài chiến thắng bầy chó săn hoang dại này và bỏ đi… Quỷ gieo dối trá trong tâm hồn họ và Chúa Giêsu giữ thinh lặng”.

Theo Đức Phanxicô, đoạn Phúc Âm này dạy chúng ta khi đứng trước sự “mù quáng” thì phải “giữ thinh lặng”: “Thinh lặng sẽ thắng nhưng qua Thập giá. Thinh lặng của Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu lần trong gia đình, khi thảo luận về chính trị, về thể thao, về tiền bạc… sau đó các gia đình bị phá hủy, trong các thảo luận này, chúng ta thấy quỷ ở đó để phá hủy”.

Sự thật thì nhẹ nhàng

Đức Phanxicô xin “giữ thinh lặng”. “Nói những gì mình suy nghĩ và thinh lặng. Bởi vì sự thật thì nhẹ nhàng, sự thật thì thinh lặng, sự thật thì không ồn ào… Với những người không thiện chí, với những người chỉ tìm tai tiếng, chỉ tìm chia rẽ, chỉ tìm phá hủy, trong gia đình cũng vậy: phải giữ thinh lặng. Và cầu nguyện”.

Một thời để nói, một thời để im lặng

Ngài kết thúc bằng lời cầu nguyện: “Xin Chúa cho chúng con sức mạnh để phân định những gì chúng con phải nói và những gì chúng con phải im. Và như thế trong suốt cuộc đời: ở nhà, ở sở làm, ngoài xã hội… trong suốt cuộc đời. Như thế chúng con sẽ là những người noi theo gương Chúa tốt hơn”.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn: http://phanxico.vn

“Biến cố Giêsu” đã để lại một ấn tượng lớn trong Giáo Hội thời kỳ đầu. Qua lời rao giảng và các việc làm của các Tông Đồ, người ta bắt đầu tin vào Đức Giêsu như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Giáo Hội nhanh chóng lan rộng. Niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu dành cho Đức Giêsu cũng dần dần thấm vào đời sống của các tín hữu.

“Biến cố Giêsu” đã để lại một ấn tượng lớn trong Giáo Hội thời kỳ đầu. Qua lời rao giảng và các việc làm của các Tông Đồ, người ta bắt đầu tin vào Đức Giêsu như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Giáo Hội nhanh chóng lan rộng. Niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu dành cho Đức Giêsu cũng dần dần thấm vào đời sống của các tín hữu. Bởi thế, khi đối diện với cuộc bách hại kinh khủng, nhiều người vẫn sẵn sàng chịu chết, lấy máu mình làm của lễ dâng lên Chúa, chứ nhất quyết không chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu. Thậm chí, người ta còn vui mừng khi chịu chết vì danh Chúa. Họ xem đó là một vinh dự vì được kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Có thể nói, đối với họ, cuộc đời này chẳng còn mong chờ gì hơn, ngoài việc quy hướng tất cả về Chúa, chờ đợi Người sẽ đến và kiện toàn Nước Trời như lời Người đã nói.

Khi cuộc bách hại qua đi với chiếu chỉ của Constantine vào năm 313, các Kitô hữu được tự do sống niềm tin của mình. Đây là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng để lại một cuộc khủng hoảng trong lòng những ai muốn hiến dâng tất cả, kể cả mạng sống mình, cho Chúa. Không còn những bắt bớ cũng đồng nghĩa với việc không còn cơ hội để kết hiệp với Đức Kitô chịu khổ nạn. Các tín hữu bắt đầu tìm những cách khác để thể hiện khao khát muốn hiến thân. Trong một vài tài liệu cổ, người ta nhận thấy vào những thế kỷ đầu, đã có những nghi thức thánh hiến trinh nữ. Đó là những người phụ nữ không muốn lập gia đình như bao phụ nữ khác theo phong tục tập quán lúc bấy giờ. Họ muốn dành chọn cuộc đời như một của lễ dâng lên Chúa.

Lúc này, có một xu hướng “chê ghét” thế gian. Nhiều người xem “thế gian”, tức xã hội mà trong đó người ta sinh sống, là chốn ồn ào, xô bồ, nơi giao tranh của những điều phàm tục, xấu xa. Bởi thế, họ cho rằng thế gian là nơi dành cho những con người có đời sống thiêng liêng thấp, nơi hoạt động của ma quỷ, lôi kéo người ta đến những điều nhơ nhuốc. Để gặp được Thiên Chúa, người ta cho rằng phải tìm đến những nơi thanh tịnh. Từ đó, có một xu hướng đi vào rừng sâu, sa mạc, tìm đến những nơi thanh vắng với hy vọng có thể tìm gặp được Chúa trong sự bỏ mình, phạt xác. Mỗi người tự tìm cho mình một góc riêng. Ăn uống đạm bạc, không ăn mặc cầu kỳ. Dành phần lớn thời gian trong ngày để cầu nguyện, giữ tâm hồn thinh lặng tuyệt đối. Ta được biết đến câu chuyện của thánh Anton Tu Rừng, người đã có những cuộc chiến với ma quỷ khi chúng muốn cám dỗ ngài bỏ cuộc.

Cứ thế, làn sóng kéo vào sa mạc để tu trì ngày càng gia tăng. Sa mạc vốn là ơn yên tĩnh, nay lại trở nên nơi ồn ào vì có quá nhiều người kéo đến để tu. Các tu sĩ lại khăn gói lên đường, tìm một nơi khác để sinh sống và tu. Bên cạnh đó, do nhu cầu về sinh tồn và an toàn, một số người đã liên đới với nhau, giúp đỡ nhau, đặc biệt là những trinh nữ. Họ sống với nhau trong một khoảng không gian, phân chia nhau những phận vụ. Khi người này cầu nguyện thì người kia đi kiếm thức ăn, hoặc ngược lại. Khi có thời gian rảnh rỗi, họ có thể chia sẻ với nhau những tâm tình hay những điều đã nhận được từ giờ cầu nguyện để nâng đỡ nhau. Chính Pacom, vào khoảng thế kỷ thứ 4 ở Ai Cập, sau bảy năm thụ huấn với Palemon, đã nhận thấy việc sống một mình không giúp ông tăng trưởng nhân đức. Vì thế, ông đã tách ra và khởi xướng một hình thức sống chung. Dần dần, hình thức này trở nên phổ biến. Đời sống ẩn tu (mỗi người một góc) dần dần được thay thế bởi hình thức cộng tu (nhiều người sống với nhau).

Hình thức cộng tu cũng theo thời gian có sự biến đổi, đặc biệt khi số lượng người muốn cộng tu gia tăng. Ngoài ra, do có nhiều tu sĩ có tiếng tăm về đạo hạnh và sự khôn ngoan, nhiều giáo dân cũng tìm đến với họ để xin theo, hoặc chỉ để tìm kiếm những lời khuyên trong cuộc sống, hoặc nhờ vị này cầu nguyện với Chúa giúp mình. Số lượng người hành hương cũng rất đông. Và để khỏi phải mất công đi xa, họ quyết định chọn một nơi nào đó gần nơi cư trú của vị tu sĩ để dễ gặp gỡ, trao đổi. Thế là, có một quần thể đông đúc người dân sinh sống, vây quanh khu vực của các tu sĩ. Các tu sĩ không thể cứ chuyển chỗ, nhưng cũng không thể để đời sống của mình bị ảnh hưởng bởi những người dân. Họ quyết định xây nhà, với tường rào và những cánh cổng kín đáo. Họ chọn một người cao niên, có đức độ làm người đứng đầu. Họ bắt đầu viết lề luật trong nhà: giờ đọc kinh, giờ cầu nguyện, giờ mở cửa gặp gỡ… Trong khuôn viên kín đáo ấy, các tu sĩ tự cày cấy, chăn nuôi để chu cấp nguồn thức ăn cho mình. Khi được mùa, họ chia sẻ những phần còn dư cho những người chung quanh. Đây chính là hình thức đầu tiên của kiểu sống đan viện, còn kéo dài cho đến tận ngày nay. Chính thánh Biển Đức là tổ phụ của đời sống đan tu này.

Thời gian trôi qua, các kiểu đan viện như thế này xuất hiện càng nhiều. Các tu sĩ vẫn giữ thói quen thinh lặng, cầu nguyện và lao động, gặp gỡ Chúa trong những bổn phận thường ngày và trong lối sống đơn sơ, thanh thoát, không cạnh tranh với đời. Viện Phụ được xem như người cha trong đan viện, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho từng tu sĩ. Tất cả đều phải tuân theo lề luật vì lề luật giúp bảo vệ tu sĩ khỏi những sa ngã. Người ta cho rằng đan viện chính là Thiên Đường, nơi Thiên Chúa ngự trị, còn cuộc sống bên ngoài chẳng khác gì hoả ngục, vì đó là nơi hoành hành của các nết xấu. Ai muốn dâng hình cho Chúa, không cần phải tử đạo như trước, nhưng có thể từ bỏ mọi sự, sống hãm mình và hy sinh trong đan viện. Đó cũng là một kiểu tử đạo, một kiểu biến mình làm của lễ dâng lên Chúa.

Tuy nhiên, dần dần, lối sống ngày phát sinh một vấn đề liên quan đến căn tính đời tu: đi tu chỉ để lo cho đời sống của mình thôi sao, có nhất thiết phải trốn đời mới đi tu? Hay nói cách khác, đâu là tương quan giữa đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ; làm sao để có thể vừa gặp Chúa, vừa gặp người ta? Những bức tường kín cổng của đan viện dường như ngăn cản các đan sĩ gặp gỡ người dân để nâng đỡ họ. Bên trong đan viện thì trù phú, nhưng bên ngoài đan viện là những con người đói khát, không có chút thức ăn. Nhưng nếu các đan sĩ cứ ra ngoài để làm việc tông đồ thì làm sao có thể chu toàn những bổn phận về các giờ kinh, giờ cầu nguyện nghiêm ngặt?

Khoảng thế kỷ thứ 12,13, Giáo Hội rơi vào thời gian đêm tối, cái mà người ta vẫn gọi là “đêm trường Trung Cổ”. Hàng Giáo sĩ ăn chơi, sa đoạ, sống truỵ lạc, chẳng màng gì đến đời sống đức tin. Linh mục không chăm lo cho đời sống thiêng liêng của giáo dân. Nhiều người trong số đó cũng thất học, chẳng hiểu gì về đức tin. Giáo dân thì noi gương các giáo sĩ. Chỉ giữ đạo theo kiểu mê tín, chứ hoàn toàn không có chút kiến thức nào về những điều mình tin. Đời sống đan viện dường như không thể cáng đáng nỗi sự sa đoạ trong Giáo Hội lúc bấy giờ.

Nhưng Chúa đã an bài mọi sự. Ngay giữa đêm tối ấy, xuất hiện trong Giáo Hội hai vị đại thánh là thánh Phanxico Assisi (1181-1226) và thánh Đa Minh (1170-1221). Hai vị này đã lập nên hai dòng mang tên mình, với hai linh đạo khác nhau. Thánh Phanxico Assisi đã dùng sự khó nghèo làm trụ đỡ cho đời sống thiêng liêng. Còn thánh Đa Minh thì dùng phương pháp giảng thuyết để giúp củng cố đức tin cho các tín hữu. Cả hai đều có chung lý tưởng xây dựng Giáo Hội. Hàng ngày đi xin ăn, tiếp xúc với người khác, sống đời sống đạm bạc, theo mẫu gương Đức Giêsu khó nghèo. Gương lành và đời sống đạo đức cùng những việc bác ái tốt đẹp do hai vị thánh này cũng như các tu sĩ trong hội dòng mang tên họ đã lôi kéo được nhiều người về với Chúa. Khác với đời sống đan viện, các dòng khất thực không khuôn mình trong những bức tường, nhưng đã đi ra ngoài, tiếp xúc với người khác để làm việc tông đồ.

Nơi thánh Inhaxio Loyola (1491-1556), Thánh Thần đã thổi một luồng gió mới vào Giáo Hội. Linh đạo của Inhaxio, xuất phát từ kinh nghiệm của chính bản thân ngài, đã là nguồn khởi hứng cho rất nhiều cá nhân, tu hội khác từ lúc ra đời cho đến nay. Với Inhaxio, hai yếu tố “chiêm niệm” và “hoạt động” không còn là hai trục tách rời nhau, nhưng hoà quyện với nhau thành một: chiêm niệm trong hoạt động. Chiêm niệm là nguồn mạch của mọi hoạt động, và trong chính hoạt động, người ta đang chiêm niệm. Nói rõ hơn, theo ngôn từ của Inhaxio, người ta phải cố gắng “tìm thấy Chúa trong mọi sự”. Con người phải luôn nhìn đến Chúa như là cùng đích của đời mình và sử dụng mọi cái Chúa ban như phương tiện giúp mình đến với Chúa. Nói cách khác, con người phải luôn có gắng kết hiệp với Chúa qua việc thực thi ý của Ngài. Trong mọi việc mình làm, dù ở đâu, dù thế nào, vẫn luôn hướng trọn tâm trí về Chúa, để tất cả đời sống của mình trở thành một lời cầu nguyện dâng lên Chúa.

Sau thánh Inhaxio Loyola, chắc chắn sẽ còn có nhiều linh đạo khác nữa ra đời, giúp các tín hữu nên thánh trong cuộc sống của mình. Ôn lại lịch sử các linh đạo, ta như được gợi nhắc về bản chất nguyên thuỷ của đời tu. Đó là một cuộc đời tử đạo, một chọn lựa để mình ngày càng chết đi với Chúa và được cùng Người sống lại trong một sự sống mới. Thật ra, trước khi Đức Giêsu ra đời, đã có những dấu tích của một cuộc sống ẩn tu, xa lánh thế gian, sống độc thân trong sa mạc (ví dụ như cộng đoàn Essenes ở Qumran, gần Biển Chết ở Palestin). Nhưng chỉ khi biến cố nhập thể xảy ra, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, đời tu mới thật sự mang lấy một ý nghĩa phong phú. Đức Giêsu trở thành khởi nguồn, nền tảng và điểm tựa của đời tu. Vì thế, chẳng nghi ngờ gì, ta có thể khẳng định rằng từ Đức Giêsu, ta tìm thấy nguồn gốc và ý nghĩa thật sự của đời tu, của một sự dâng hiến trọn vẹn.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Nguồn: https://giaophanvinhlong.net