Ngày nay, nhân loại đang sống trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão. Thế giới ấy đòi hỏi mỗi người phải trang bị cho mình kiến thức cơ bản trên hầu hết các lãnh vực của đời sống xã hội. Ngoài việc trang bị cho mình những tri thức vững chắc về Giáo lý, Tu đức và Đời sống tâm linh, người tu cần thiết phải trau dồi cho mình những trải nghiệm phong phú về cuộc sống và về con người, hầu có thể dấn thân một cách đắc lực hơn cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Trau dồi tri thức là công việc hệ trọng trong tiến trình đào tạo người Tu sĩ. Ngày nào người tu bằng lòng với vốn hiểu biết của mình, ngày đó họ đang bước đến bên bờ vực thẳm. Tri thức trên nhiều lãnh vực sẽ giúp bản thân người tu sĩ trở nên giàu có và phong phú hơn. Hơn nữa, chỉ khi được đào luyện trong một môi trường xã hội cụ thể với các kỹ năng chuyên môn cần thiết, người tu mới có thể tự tin bước vào sứ vụ, mà không bị choáng ngợp trước muôn vàn sắc màu của cuộc sống. Sự hiểu biết đầy đủ sẽ giúp người tu có khả năng đứng vững trước những đổi thay của thời cuộc và của lòng người. Dẫu biết rằng, việc đào tạo tri thức cho người Tu sĩ chỉ là một nhu cầu, một phương tiện giúp họ thi hành tốt hơn sứ vụ tông đồ, nhưng trong thời đại ngày nay, một thế giới đề cao vị trí và vai trò của chất xám, thì người tu nhất thiết không để mình bị mù tri thức.

Cách riêng, việc trang bị tri thức về đạo giúp người Tu sĩ tin và sống theo lời Chúa dạy. Vì lẽ, ta không thể tin theo điều mà chúng ta chưa hề nghe hoặc chưa bao giờ tận mắt chứng kiến. Bên cạnh tính chắc chắn và thiết thực với cuộc sống, tri thức giúp người tu “miễn nhiễm” trước những quyến rũ đầy màu sắc của cuộc sống. Chỉ khi việc đào tạo đáp ứng được đòi hỏi này, cánh đồng truyền giáo mới có thể mọc lên những bông hoa đầy hương sắc giữa những pha tạp của đời thường, để tô điểm thêm bức tranh muôn màu của cuộc sống. Thêm vào đó, việc đào luyện giúp các Tu sĩ có khả năng hoà nhập để cảm thấu con người trong xã hội, nhưng không bị hoà tan trong những vụn vặt của thời đại. Mặt khác, chỉ khi biết Chúa, yêu mến Chúa và có kinh nghiệm về Ngài, chúng ta mới có thể giới thiệu, giải thích, hướng dẫn người khác hiểu và sống Lời Chúa một cách chắc chắn và đúng đắn. Biết ở đây không phải là biết một cách lơ mơ, đại khái, nhưng là biết chính xác, chi tiết và sâu sắc. Có như vậy, người tu mới tạo được niềm tin và giúp người khác xác tín vào những gì người tu rao giảng.

Người Tu sĩ chỉ hiểu biết về đạo không thôi chưa đủ, nhưng thêm vào đó, họ cần thủ đắc cho mình tri thức trong các lãnh vực khác một cách có chọn lọc. Tri thức xã hội giúp cho lời nói, bài giảng và những chia sẻ của người tu thêm sinh động, phong phú, sâu sắc, gần gũi và dễ hiểu hơn. Đặc biệt, khi người tu nắm bắt được nhịp sống và sự phát triển của xã hội, họ có khả năng hướng dẫn con người nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa trong dòng chảy lịch sử nhân loại. Hơn nữa, đứng trước một thế giới không ngừng biến chuyển và quá đỗi phức tạp như hiện nay, bên cạnh một đức tin kiên vững, thì các kiến thức về khoa học, xã hội sẽ giúp người tu vững vàng hơn trên bước đường dấn thân phục vụ.

Nội dung tri thức của người tu trước hết phải gắn liền với Thiên Chúa và sau là nối kết với cuộc sống, bởi vì con người được mời gọi sống chung, sống cùng và sống với người khác. Do đó, không ai trong chúng ta được phép tách mình ra khỏi cộng đồng nhân loại, để rồi phải cô đơn trong ốc đảo của mình. Thành ra, dù nam hay nữ, dù còn trẻ trung hay đã cao niên, người tu cũng đều sống trong một giai đoạn lịch sử cụ thể với những bối cảnh và điều kiện nhất định. Hơn nữa, Tu sĩ có đời sống tâm linh sâu sắc phải là người có mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa và với các thực tại trần thế, sẵn sàng đón nhận tính cách nhân loại của mình. Cũng trong chiều kích đó, người Tu sĩ toàn diện, bên cạnh những giây phút chiêm niệm để kín múc nguồn dưỡng khí từ trời cao, họ cũng chính là những người biết cảm thấu những cảnh đời đau thương trong xã hội, dang rộng đôi tay và trái tim hầu xoa dịu nỗi đau trong tâm hồn con người. Thành ra, tri thức không phải chỉ tiếp nhận trên trường lớp, nhưng là bài học trải rộng, trải dài trong cuộc sống và trong mối tương quan giữa người với người.

Tri thức quan trọng, nhưng suy cho cùng, nó cũng chỉ là phương tiện để đạt được mục đích tối hậu là nhận biết Chúa Kitô. Quả vậy, bốn chiều kích căn bản của đời tu là nhân bản, đời sống thiêng liêng, tri thức và mục vụ, thì tri thức chỉ được xếp ở vị trí thứ ba mà thôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số Tu sĩ lại quá coi trọng tri thức mà quên đi căn tính đời tu và nhân cách của mình. Không thiếu những Tu sĩ vì được sở hữu một vốn tri thức sâu rộng, đã quay lưng lại với Giáo hội, khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, suy nghĩ lệch lạc, khủng hoảng lòng tin, thậm chí dẫn đến bội giáo, ly giáo. Cũng không thiếu những Tu sĩ vì quá đề cao kiến thức, dẫn đến thái độ cạnh tranh, ghen tương, đố kỵ về thành tích học tập, theo tinh thần thế tục không xứng bậc tu trì. Thái độ và lối suy nghĩ ấy vô cùng nguy hiểm, không nằm trong ý định của Thiên Chúa, và cần phải loại trừ.

Thành ra, tri thức chỉ đúng đắn và có giá trị khi chúng được xây dựng trên nền tảng vững chắc là chính Đức Kitô, dưới sự hướng dẫn của vị thầy tối cao là Chúa Thánh Thần. Mục đích học tập của Tu sĩ không phải là để đạt đến sự sung mãn cho bản thân nhưng là để hiểu biết, tin tưởng, yêu mến và phục vụ Đức Kitô nơi tha nhân. Vì những lý do đó, người tu nhất định phải đam mê truy tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để làm giàu tâm hồn và đời thánh hiến của mình, và nhất định không được phép để mình bị mù tri thức.

TT

Nguồn: https://giaophanvinhlong.net

Dẫn nhập: Ngày nay, xã hội có sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Chắc hẳn, sự phát triển đó có ảnh hưởng tới đời sống đức tin của người Ki-tô hữu nói chung và đời sống người tu sĩ nói riêng. Việc đào tạo người tu sĩ trẻ được nhấn mạnh, để làm sao người tu sĩ vững vàng bước vào thế giới. Như Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II bàn về việc đào tạo Linh mục trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, các hội dòng cũng thực hiện việc đào tạo tu sĩ thông thường dựa trên các chiều kích khác nhau về nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ.

Như vậy, huấn luyện nhân bản là một chiều kích không thể thiếu trong tiến trình đào tạo người tu sĩ. Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành nhân bản? Người tu sĩ cần huấn luyện như thế nào để trưởng thành nhân bản? Sau đây là đôi điều xin được bàn luận.

Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành nhân bản?

Dưới cái nhìn của dân chúng, người tu sĩ là người trưởng thành nhân bản và trưởng thành Ki-tô giáo. Người tu sĩ có mối tương giao thường xuyên với người khác vì thế họ cần phải học cách cư xử và giao tế cho đúng phép. Hơn nữa, dưới cái nhìn chính danh, người tu sĩ là người được kêu gọi để trở nên "hình ảnh sống động" của Đức Giê-su, Đấng đã đến trần gian trong thân phận con người, hoàn hảo về phương diện nhân bản, đặc biệt qua thái độ của Người đối với tha nhân. Vì thế, người tu sĩ cần được rèn luyện để ngày càng trở nên giống Thầy của mình "có khả năng nhận thức được chiều sâu trong tâm trí con người, nhạy bén về những khó khăn và những vấn đề, dễ dàng gặp gỡ và đối thoại, gây được niềm tin và sự cộng tác, đưa ra những phán đoán ngay thẳng và khách quan." [1]

Trong huấn từ ban cho Dòng Cát-minh, ngày 23.9.1951, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập học viện Quốc tế của Dòng tại Rô-ma, Đức thánh cha Pi-ô XII đã khẳng định sự quan trọng của việc trưởng thành nhân bản: "Trong khi chờ đợi người tu sĩ trẻ trở nên thành viên có nhân đức sáng ngời, thì họ phải luyện tập trở thành con người hoàn hảo trong những công tác thường nhật: vì làm sao con người có thể trèo lên đỉnh núi nếu dưới đồng bằng họ đi chưa vững bước! Vậy ước mong rằng người tu sĩ rèn luyện và biểu dương qua cuộc sống, một nghị lực thích ứng với tha nhân và tương quan xã hội, một thái độ cởi mở, một bộ diện nhu mì, một tâm hồn trung thực, và cũng ước mong rằng người tu sĩ ấy luôn luôn giữ lời hứa, làm chủ ngôn hành của mình, biết kính trọng mọi người, giữ đức công bình, giữ đức nhẫn nhục.."

Công đồng Va-ti-ca-nô II trong Sắc lệnh đào tạo Linh mục cũng khẳng định: "Các chủng sinh phải tập cho quen biết điều thích hợp với cá tính mình, họ phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng" và " Sẽ thất bại khi gán ép sự thánh thiện Ki-tô giáo cho một người chưa đạt tới sự trưởng thành nhân bản"[2]. Những điều nói về chủng sinh, cũng phải hiểu về các tu sĩ nữa, nhất là các tu sĩ trẻ đang trong giai đoạn đào tạo.

Như vậy, sự trưởng thành nhân bản là rất cần thiết đối với người tu sĩ. Đó là nền tảng để xây dựng sự trưởng thành Ki-tô giáo và trưởng thành đời tu. Vậy, để trưởng thành nhân bản, người tu sĩ cần được huấn luyện thế nào? "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền,... thì xin anh em hãy để ý" (Pl 4,8)

Người trưởng thành nhân bản là người rèn luyện thành công những đức tính tự nhiên, đạt tới nhân cách viên mãn. Đó là phải rèn luyện để biết cư xử lịch sự với bản thân và người khác; biết sống thành thật, công bằng, chính trực, tiết độ; biết tự tín, tự chủ, sáng tạo; có tinh thần trách nhiệm ... Nói về nội dung giáo dục nhân bản, Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, đã khẳng định "sự cần thiết phải có một nền giáo dục về lòng yêu mến chân lý, sự chân thành, thái độ tôn trọng mọi người, ý thức về công bình, trung tín với lời mình nói, sự cảm thông đích thực, tính nhất quán và nhất là quân bình trong phán đoán và thái độ cư xử"[3] đối với các chủng sinh trong giai đoạn đào tạo. Điều này cũng phù hợp với người tu sĩ trẻ.

Khi nói đến giáo dục nhân bản, chúng ta thường nghĩ đến việc được đào tạo tựa như vị giáo sư truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm cho sinh viên. Điều này chỉ đúng một phần, mà có lẽ là phần nhỏ. Trong lĩnh vực đào tạo nhân bản, chính mỗi người phải tự đào luyện mình, với sự giúp đỡ của anh chị em hiện diện xung quanh.

Đối với tinh thần

Rèn luyện lòng chân thành: chân thành với mình và chân thành với người khác. Chân thành với mình là tư tưởng và hành động phải phù hợp với nhau, nghĩ sao làm vậy. Vì thế, trước khi hành động, chúng ta phải nhìn lại ý hướng của mình và cố gắng loại trừ những gì không tốt. Chân thành với người khác gắn liền với sự chân thành với chính mình. Không thể sống chân thành với chính mình khi không chân thành với người khác.

Truy tầm chân lý: là những người môn đệ Đức Giêsu, các tu sĩ đang trên đường tìm kiếm Chân Lý để có thể làm chứng cho Chân Lý. Đây là một hành trình dài, cần sự nhiệt tâm và kiên trì của mỗi người. Người trưởng thành không ngừng tìm kiếm tìm sự thật sâu thẳm về chính mình và về sự vật với con mắt nội tại của con tim, để ngày càng trở nên khiêm tốn và tin tưởng vào Thiên Chúa hơn.

Trau dồi kiến thức: Ngày nay, người tu sĩ sống trong môi trường khoa học phát triển, trình độ dân trí ngày một cao hơn, phương tiện kỹ thuật ngày càng đa dạng...Vì thế, để có thể phục vụ tốt hơn, để có thể chu toàn sứ vụ và trở nên hữu ích cho mọi người, người tu sĩ cần được đào tạo, trau dồi để có thể có trình độ kiến thức tương xứng và chuyên môn nào đó. Ngày nay có nhiều cơ hội học tập cho mọi người, vì thế để có kiến thức về một lĩnh vực nào đó là điều không khó.

Rèn luyện thái độ bao dung: "Bao dung trở thành đường lối xử thế chủ yếu làm sao để người khác được tự do trình bày những quan điểm mà chúng ta không đồng ý và nhất là cho phép mỗi người sống theo nguyên tắc và xác tín riêng".[4] Bao dung đích thực đòi hỏi phải có lập trường và xác tín riêng, nhưng không áp đặt xác tín của mình trên người khác, chấp nhận để những người khác cũng có những xác tín riêng của họ. Bao dung là nhìn nhận và chấp nhận những khác biệt giữa các cá nhân, là biết lắng nghe người khác, trao đổi với họ và hiểu họ. Như thế, bao dung là điều rất cần thiết đối với những người tu sĩ sống cộng đoàn.

Đối với tình cảm và ý chí

Tình cảm là một năng lực mãnh liệt có thể giúp chúng ta hăng say làm việc có ích hoặc có thể đẩy chúng ta vào con đường tha hóa. Chúng ta không thể hủy diệt tình cảm của mình. Vì vậy, cần phải rèn luyện tình cảm để khơi dậy sức mạnh nhân bản lớn lao, tức là điều khiển và hướng dẫn tình cảm vươn lên những đối tượng tốt đẹp hơn. Để chế ngự tình cảm và hướng nó đến những đối tượng cao đẹp, thì chúng ta cần tạo cho mình một ý chí mạnh mẽ. Để thành nhân, chúng ta phải biết tiết chế đam mê và hướng dẫn các khuynh hướng bản năng.

Rèn luyện khả năng yêu thương: trong thông điệp Đấng Cứu Chuộc, Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II khẳng định: "Con người không thể sống mà không có tình yêu". Vì thế, người trưởng thành nhân bản phải là người biết yêu bản thân mình, có trách nhiệm làm cho mình phát triển trọn vẹn cả về thể lý, tâm lý, thiêng liêng. Đó không phải là tình yêu vị kỷ, nhưng chính khi biết yêu bản thân mình, chúng ta biết trao hiến cho người khác, yêu thương và đón nhận họ như mình vậy.

Rèn luyện ý thức: người trưởng thành nhân bản là người biết khám phá và nhận biết chính bản thân mình với những nét độc đáo, riêng biệt. Chính khi ý thức về bản thân, chúng ta có thể chọn lựa và quyết định sứ vụ phù hợp với bản thân.

Chấp nhận thực tế: người tu sĩ trưởng thành nhân bản là người biết chấp nhận thực tế về bản thân, có cái nhìn đúng đắn về mình, không huênh hoang tự đắc, cũng chẳng giả bộ giả hình. Ngoài ra, người tu sĩ trưởng thành còn phải biết chấp nhận hoàn cảnh, môi trường cuộc sống của cộng đoàn, hội dòng, và anh chị em. Nhờ biết chấp nhận thực tế, họ có thể sống bình an, hạnh phúc.

Rèn luyện cảm xúc: người tu sĩ trưởng thành nhân bản là người sống yêu thương chan hòa với mọi người, có khả năng mở rộng tâm hồn cho mọi người và đón nhận họ một cách thanh thản, không thiên kiến với ai. Trong giao tiếp, họ biết diễn tả hồn nhiên và đúng mức cảm xúc.

Rèn luyện tinh thần trách nhiệm: người trưởng thành là người có tinh thần trách nhiệm về công việc mình đảm nhận, về cuộc sống cũng như lựa chọn của mình.

Rèn luyện khả năng thích nghi: chúng ta muốn bước vào cuộc sống mới, chúng ta phải chấp nhận từ bỏ lối sống cũ và sẵn sàng hòa nhập. Được coi như người lữ hành, người tu sĩ cũng phải rèn luyện để có thể thích nghi thường xuyên với môi trường mới.

Rèn luyện thái độ quân bình và trung dung: người tu sĩ cần rèn luyện để có thể luôn giữ được mức quân bình cần thiết: giữa tâm lý và thể lý, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lao động và nghỉ ngơi...Chính điều đó, giúp cho họ giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống, để sống đời tu hạnh phúc hơn

Huấn luyện lương tâm

Lương tâm có thể bị ngủ mê, sai lầm, lạc lối. Một số người có ít khả năng nhận ra tiếng nói của lương tâm, vì thế, vai trò giáo dục lương tâm được đặt ra một cách khẩn thiết. "Sự trưởng thành nhân bản của linh mục đặc biệt phải bao gồm việc huấn luyện lương tâm. Thực vậy để ứng sinh có thể trung thành chu toàn những bổn phận với Thiên Chúa, Giáo hội và biết khôn ngoan hướng dẫn lương tâm các tín hữu, họ phải làm quen với việc lắng nghe tiếng Thiên Chúa đang nói với họ trong tâm hồn, và chấp nhận thánh ý Người với lòng yêu mến và cương quyết".[5]

Huấn luyện lương tâm thế nào? Trước hết cần huấn luyện tri thức để biết những nguyên tắc căn bản về luân lý và giáo huấn Tin Mừng. Thứ hai: tạo một thói quen biết nhạy cảm trước những giá trị luân lý và luôn chăm chú kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng: để có thể lắng nghe tiếng nói lương tâm cũng cần cầu nguyện, có thái độ phản tỉnh và biết đối diện với bản thân mình.

Người tu sĩ phải nhận ra những đòi buộc mà con người phải chu toàn để thực hiện sứ vụ làm người. Họ sẵn sàng hành động không phải vì sợ hình phạt, hoặc hay muốn bắt chước cách hời hợt, nhưng dựa trên xác tín về những giá trị nội tại của các đòi hỏi luân lý.

Rèn lyện mối tương giao với người khác

Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định "mối tương giao với người khác có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là một yêu tố thực sự thiết yếu đối với người được mời gọi để lãnh trách nhiệm về một cộng đoàn và trở thành một con người hiệp thông"[6]. Thật vậy, con người không thể khép kín nơi chính mình, mà phải sống trọn vẹn chiều kích xã hội mở rộng mối tương quan với cộng đoàn. Thánh Tô-ma A-qui-nô diễn tả con người như một hữu thể sống với, sống cùng người khác và có trách nhiệm đối với lợi ích chung.

Theo cái nhìn xuất phát từ mầu nhiệm Hội thánh, đời sống tu sĩ phải thấm nhuần cả hai chiều kích: Chiều kích cá nhân – đó là đời sống nội tâm, và chiều kích cộng đồng – hướng đến tha nhân và dấn thân trong công việc tông đồ. Vì thế, người tu sĩ không thể không có mối tương quan với người khác, trước hết với anh chị em trong cộng đoàn, và sau đó với tất cả mọi người mà người tu sĩ dấn thân cho họ trong công tác tông đồ.

Vì vậy, người tu sĩ cần rèn luyện mối tương giao đó. Đó là rèn luyện thái độ cởi mở để có mối tương quan đích thực và lành mạnh với tha nhân ; thái độ tôn trọng phẩm giá con người, để có thể "vượt qua và loại trừ mọi hình thức kỳ thị về quyền lợi căn bản của con người trong lĩnh vực xã hội cũng như văn hóa, vì lý do phái tính, chủng tộc, màu da, điều kiện xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo"[7]. Ngoài ra, trong cộng đoàn, người tu sĩ cũng phải học cách hỗ trợ và xây dựng nhau, học cách chia sẻ, giao tiếp hài hoà...để ngày càng trở nên hiệp nhất trong Chúa Ki-tô và hiệp nhất với nhau trong sứ vụ.

Kết luận

Giáo hội mời gọi những người được thánh hiến trong bậc sống tu trì cần phải nhận ra sứ mạng của mình để có thể bước vào thế giới, dấn thân làm chứng cho tình yêu và phục vụ Tin Mừng hiệu quả. Để thực hiện được điều đó, họ phải được huấn luyện không chỉ về triết học, thần học, mà còn phải được huấn luyện để trưởng thành về tâm sinh lý, tu đức, tâm linh... Sự trưởng thành của ngươi tu sĩ không chỉ dựa vào nhà huấn luyện, nhưng chính việc tự huấn luyện, tự chịu trách nhiệm về chính mình trong sự tự do đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội dòng mới tạo nên nền tảng vững vàng cho sự trưởng thành. Chính Đức Giê-su, Đấng đã sống trọn vẹn kiếp người, là gương mẫu tuyệt vời cho chúng ta bước theo.

(Tập san Chia sẻ số 62)

Công Thượng

THÁCH ĐỐ CỦA NGƯỜI TU SĨ TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Bước vào ngàn năm thứ ba, nhìn tổng thể, xã hội loài người có nhiều thay đổi theo hướng tích cực trong hầu hết mọi lãnh vực. Trong bối cảnh xã hội phát triển, cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố và không ít rủi ro. Chính vì thế, con người dù dư thừa vật chất, nhưng vẫn cảm thấy buồn phiền, chán nản, lo âu, bất an... Có nhiều người rất thành công trong sự nghiệp, lắm bạc nhiều tiền, cũng như có được một gia đình yên ấm, nhưng lại cảm thấy trống vắng trong tâm hồn. Bên cạnh đó, cùng với phát triển kinh tế, cuộc sống sung túc hơn thì đồng thời, con người cũng chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn.

 

THÁCH ĐỐ CỦA NGƯỜI TU SĨ TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Ra như mối tương quan tình thân dễ bị lãng quên hơn. Lại nữa, con người ngày nay cũng có nhiều thay đổi trong lối suy nghĩ, quan niệm sống và các giá trị tinh thần cũng đang được nhìn nhận lại một cách tự do hơn, thông thoáng hơn. Đặc biệt trong đời sống tâm linh, niềm tin vào các tôn giáo đang được con người đặt vấn đề. Họ nghi ngờ về một sức mạnh nào đó từ bên ngoài tác động vào đời sống của con người.

Đứng trước thực trạng của một xã hội mà con người muốn phủ nhận Thiên Chúa và chạy theo vật chất, giới trẻ Công giáo nói chung và các tu sĩ trẻ nói riêng sẽ gặp rất nhiều những thách đố trong đời sống. Với cái nhìn chủ quan, bài viết nêu lên những thách đố mà người tu sĩ sẽ phải đối diện khi sống giữa lòng xã hội hôm nay. Những gì trình bày ở đây ra như tiêu cực, nhưng hy vọng đó là số ít, còn thực tế thì phần nhiều là những gương sáng cho con người thời đại.

Thách đố khi hội nhập với xã hội

Ngày nay, người tu sĩ trẻ được mời gọi sống hội nhập để làm chứng cho niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô giáo. Họ được kêu gọi hãy dám từ bỏ những giá trị vật chất, là những gì đáng được hưởng, để dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp hơn. Nói thế không phải phủ nhận những giá trị vật chất đem lại cho đời tu. Thật thế, có rất nhiều phương tiện hữu ích trong xã hội hiện đại đang phục vụ cho sứ mạng của người tu sĩ. Vấn đề đặt ra là, người tu sĩ hội nhập với xã hội hay là bị hoà tan trong xã hội – một xã hội hưởng thụ và tục hoá?

Trong thực tế, có không ít người sống đời tu nhưng đã bị cuốn vào vòng xoay của lối sống thực dụng. Không ít người chọn đời tu để mong thoát ra khỏi những khó khăn về đời sống vật chất. Họ chọn nhà Dòng như là điểm dựa để tiến thân. Họ chạy theo thời đại với những toan tính thiên về vật chất. Họ cũng cố gắng tìm cho mình những gì người khác có. Về bằng cấp, họ cũng tìm kiếm như mọi người, nhưng không phải để phục vụ mà là để khoe mẽ, để tiến chức. Về vật chất, nhiều vật dụng không cần thiết hoặc chưa cần thiết cho cuộc sống thì họ cũng cố gắng phải có để bằng anh, bằng em. Khi bản thân hoặc gia đình họ không có điều kiện, họ cố gắng chạy chọt, xin xỏ để đạt được những gì mình muốn. Có nhiều người đưa ra những lý luận rất hay để biện minh cho những hành động chạy theo lối sống hưởng thụ của mình.

Thế còn những người mang nơi mình một lý tưởng cao đẹp trong đời sống dâng hiến thì sao? Họ phải sống thế nào trước một xã hội đề cao cái tôi cá nhân và sự hưởng thụ này? Có lẽ, người tu sĩ trẻ cần hội nhập để cùng đồng hành và chia sẻ với con người, giúp họ và giúp mình tìm được giá trị đích thực về đời sống con người. Người tu sĩ trẻ hội nhập để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của kiếp người. Họ hoà đồng mà không bị hoà tan trong vũng bùn của cuộc đời nhiều tội lỗi. Người tu sĩ trẻ có thể đến với những bóng đêm của cuộc đời để kéo con người trong đó ra ánh sáng, nhưng họ không ở luôn trong bóng đêm ấy. Người tu sĩ trẻ có thể đến với những người yếu đuối để nâng họ đứng lên, chứ không bị những yếu đuối ấy nhận chìm…

Thiết nghĩ, người chọn đời tu vẫn đang sống trong xã hội này, không thể tách rời. Vì thế, họ cần tận dụng những thuận lợi mà xã hội đem lại để phục vụ cho sứ mạng của mình. Đồng thời, họ cần phát huy hơn nữa những giá trị tích cực mà cơ chế thị trường, xã hội thực dụng, công nghệ - khoa học đem lại để phần nào làm hạn chế những điều tiêu cực do chính cơ chế ấy gây ra. Hoà nhập được như thế thì thực trạng xã hội sẽ không còn là một thách đố với người tu sĩ trẻ nữa, mà trở thành một phương tiện hữu dụng để họ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người hôm nay.

Thách đố khi sống các nhân đức

Bên cạnh việc sống hội nhập với xã hội, người tu sĩ còn được mời gọi thể hiện đời sống chứng tá của mình bằng việc thực thi hoàn trọn các nhân đức, để làm gương sáng cho mọi người. Đây cũng là một thách đố lớn đối với người tu sĩ trong một xã hội đang có quá nhiều những cám dỗ bủa vây.

Các nhân đức hướng thần

Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo đã được lưu truyền từ rất lâu, chẳng hạn như Phật giáo và Nho giáo. Ảnh hưởng của những tôn giáo này rất lớn đối với người Việt Nam, và đã ăn sâu vào trong tâm thức của nhiều người. Tư tưởng của các tôn giáo đó thì bình dân, giản dị, dễ gần và phù hợp với người nông dân Việt Nam. Trong khi đó, Công giáo với những ý tưởng thần học quá trừu tượng, qúa cao siêu không đủ sức nuôi tâm hồn những người tín hữu nói chung và người tu sĩ nói riêng trong cuộc chiến đấu trước những thách đố, cám dỗ của đời thường. Từ đó, người tu sĩ có thái độ gồng lên để chu toàn nghĩa vụ đầy công đức thiêng liêng nhưng không cảm nhận được những nét đẹp cao quý khiến cho đời tu trở nên nặng nề, ì ạch và “khó thở”[1].

Bên cạnh đó, họ lại thấy các đấng xưa nay vốn là thần tượng của mình, lại có những hành xử quá ư là con người. Bề trên thì chuyên quyền, người dưới thì luồn cúi… Họ ra sức tìm kiếm mà chẳng thấy Chúa đâu. Họ kêu gào mãi mà Chúa vẫn lặng thinh. Thế là, Đức Tin chao đảo, họ nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không. Trong khi đó, khoa học đang dần giải thích được hầu hết các hiện tượng mà xưa nay vẫn nghĩ là Chúa đã làm. Chính những chán nản, căng thẳng, khủng hoảng trong đời tu làm cho người tu sĩ trẻ trở nên tuyệt vọng không biết bám víu vào ai, dẫn đến những thách đố về đức cậy.

Trước một thế giới đầy biến động, sự hy vọng tan vỡ mỗi ngày. Người tu sĩ thay vì phải trở nên dấu chỉ và biểu hiện của niềm hy vọng cho người tín hữu, thì chính người tu sĩ lại đánh mất đi niềm hy vọng vào Đức Giê-su Ki-tô. Mỗi khi thất vọng, đau buồn, họ không còn tìm đến Chúa nữa. Bây giờ, họ xây đắp hy vọng của mình nơi những người có thể cho họ được an toàn trong đời tu. Họ hy vọng vào mối quan hệ thân thiết với các đấng trong Dòng, trong Giáo hội, để họ được ưu đãi, cất nhắc lên làm việc này, việc kia. Họ hướng hy vọng của mình vào nơi chính quyền, nhà nước cốt làm sao để đi tu dễ dàng, mau chóng được phong chức. Họ còn hy vọng vào những người bảo trợ (cha bố, sơ mẹ), là những người bảo đảm tài chính sẽ chu cấp cho họ được cuộc sống an nhàn, có phương tiện tối tân để làm việc.[2] Nhưng khi nói tới việc làm, thì sự dấn thân đã không còn gắn liền với người tu sĩ nữa. Ai cũng muốn an phận, dính vào thêm mệt ; bề trên giao việc thì từ chối, sợ không làm được. Hình ảnh người tu sĩ dấn thân giữa đời, là người của tình yêu giờ không còn nữa. Người tu sĩ được mời gọi trở nên giống Đức Kitô tình yêu, nhân từ, sức mạnh và sự hiểu biết giờ còn đâu? Và đây cũng chính là thách đố về đức mến.

Trong thực tế, nhiều người trẻ đi tu là để tìm kiếm một vị thế trong Dòng hoặc thể hiện mình trong các tổ chức của Giáo Hội. Đôi khi, ý tưởng khởi đầu đời tu là sự quý mến hay khâm phục một tu sĩ đạo đức thánh thiện nào đó. Thế nhưng, khi đã vào tu thì họ lại mong nhanh chóng được làm linh mục để hoạt động, để được nhiều người biết đến, để được mọi người đánh giá bằng khả năng tổ chức sinh hoạt bên ngoài, chứ không phải qua đời sống tâm linh thánh thiện. Họ thích xuất hiện trước cộng đồng hơn là đọc kinh cầu nguyện. Họ thích phục vụ ư? Tốt đấy, nhưng họ lại không phục vụ theo lòng mến giống như Chúa Kitô, mà chỉ vì mục đích vụ lợi, đạt được cái gì đó cho bản thân. Trong đời sống chung, người tu sĩ trẻ chỉ biết sống với tinh thần cạnh tranh thay vì giúp đỡ nhau ; thay vì sống tình huynh đệ cộng đoàn thì họ lại chỉ trích người này, tẩy chay người nọ. Họ thiếu lòng cảm thông và sự chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Lòng mến Chúa và yêu thương huynh đệ không còn nữa thì đời sống của người tu sĩ trở nên nặng nề và không còn ý nghĩa nữa.

Các nhân đức nhân bản

Hơn bao giờ hết, thế giới này là một thế giới “bầm dập” vì những chuyển biến, đang cần những chứng nhân thành tâm thiện chí sống động. Chính vì thế, hơn ai hết, người tu sĩ phải thể hiện sự trưởng thành trong đời sống nhân bản của chính mình. Họ cần phải có những động lực để thúc đẩy tham dự vào những bước tiến vĩ đại của nhân loại, bằng việc sống ơn gọi đích thực, bằng việc huấn luyện lương tâm, cảm thức về những giá trị đạo đức và tinh thần, nhất là làm chứng tá cho những giá trị luân lý.[3] Đứng trước thực trạng đó, người tu sĩ trẻ làm sao kiện toàn lý trí trong điều khiển các hành vi? Làm sao tập trung ý chí trong việc chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân? Vững vàng không tháo lui trước những gian nguy và kiểm soát được cảm xúc không chiều theo bản năng mù quáng? Đây chính là thách đố về luân lý cho người tu sĩ trẻ.

Trước tiên, họ cần sự khôn ngoan để đọc ra được các dấu chỉ của thời đại theo ý định Thiên Chúa như Phúc Âm đã từng nói đến “Khôn ngoan như con rắn, đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Đó là sự khôn ngoan trong tương quan với Thiên Chúa. Thế nhưng, người tu sĩ trẻ ngày nay dường như tìm kiếm một sự khôn ngoan mà nói như thánh Phaolô là sự khôn ngoan của thế gian, là khôn ngoan danh vọng và chức quyền. Sự khôn ngoan đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người tu sĩ. Họ dùng để phân biệt điều tốt và điều xấu, nhưng hiện nay sự phân biệt đó xem ra rất chủ quan. Họ còn dùng sự khôn ngoan nhằm nắm bắt cơ hội cho bản thân mà không màng đến quyền lợi của người khác, gây nên những bất công trong đời sống cộng đoàn.

Kế đến, sự công bằng cũng là thách đố cho người tu sĩ khi mà cá nhân chủ nghĩa được đề cao. Mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đoàn cũng đòi hỏi sự công bằng, nhưng là đòi hỏi theo cách cá lớn ép cá bé, hay bề trên cho anh xe gắn máy thì phải cho tôi vi tính hoặc cái gì đó tương đương.

Thêm nữa, bước vào đời tu, người trẻ phải lì, phải liều để dấn thân. Thiên Chúa không để ai bị thiệt hay chịu đựng quá sức mình: “Ơn Thầy đủ cho con vì sức mạnh Thầy biểu lộ trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Đó là lòng can đảm và sức mạnh Chúa ban để chúng ta vượt qua chông gai thử thách. Tuy nhiên sự can đảm không chỉ có thế, mà đôi khi phải chịu đựng gian khổ nữa. Thử hỏi bây giờ có mấy người dám dấn thân vào những nơi cực khổ? Ngay trong cộng đoàn, họ dùng sự can đảm để từ chối, để rút lui trước những khó khăn, dùng sức mạnh để đối đầu anh em mình.

Cuối cùng, dù sống giữa đời thường hay trong đời sống tu trì, thì việc giữ chừng mực trong hết mọi hành động vẫn là điều quan trọng. Hơn nữa, là người tu sĩ thì chúng ta phải làm gương, nếu không chúng ta sẽ giảng dạy như thế nào khi mà cuộc sống chúng ta chẳng ra làm sao. Người tu sĩ cần phải kìm hãm những nhu cầu tự nhiên trong khuôn khổ chừng mực.

Thách đố khi sống ba lời khuyên Tin mừng

Trong một xã hội, đang khi con người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đời sống tu trì lại mời gọi người tu sĩ sống lời khấn khó nghèo triệt để ; đang khi con người sống hưởng thụ, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống khiết tịnh vì Nước Trời ; đang khi con người đề cao cái tôi cá nhân, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo gương Đức Ki-tô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Đó chính là thách đố khi người tu sĩ giữ ba lời khuyên Tin mừng.

Khó nghèo

Không ai trong chúng ta muốn sống nghèo, nhất là trong xã hội mà người ta đang đề cao tiền bạc, hưởng thụ và cái nghèo bị coi là điều bất hạnh. Người tu sĩ trẻ cũng đang bị cuốn vào vòng xoáy đó và đây là một thách đố. Thực tế, nếu người tu sĩ trẻ tự nguyện sống nghèo, sống giản dị thì cũng rất khó, bởi những tác động của nội cảnh và ngoại cảnh. Nhìn ra xã hội, chúng ta thấy đủ loại hình thức quảng cáo, tiếp thị khuyến khích người trẻ hưởng thụ những tiện nghi vật chất, nhưng lại hạ thấp và quên đi những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Nhìn vào bạn bè cùng lứa tuổi thì họ đã có sự nghiệp, gia đình ổn định, còn mình thì chẳng có gì cả. Từ những so sánh tính toán đó, người tu sĩ trẻ dễ rơi vào những cám dỗ về phương tiện vật chất. Họ nghĩ muốn học hành, phục vụ cần phải có vi tính xách tay, xe gắn máy thật “xịn”để dễ dàng di chuyển chỗ này chỗ kia, làm cho được việc. Ban đầu, ý tưởng có đủ điều kiện vật chất để thi hành công việc là một điều tốt. Thế nhưng sau đó, ý hướng này đã bị lạm dụng bởi những nhu cầu không chính đáng. Những tài sản có được do khéo xin xỏ thì ai cũng bo bo giữ cho riêng mình, không dám chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Cứ thế, người tu sĩ bị bao phủ bởi những vật chất có được, khó lòng từ bỏ. Lời khấn khó nghèo trở nên nặng nề hoặc có thể bị xuyên tạc để trở nên dễ dàng hơn.

Vâng phục

Thế hệ trẻ ngày nay tỏ ra đầy tính cách duy lý, họ tìm cho mình một lập trường và có thể tự cho rằng đã đủ để mạnh dạn phê bình người khác. Nhiều tu sĩ trẻ dựa theo lập trường, theo kiến thức, sự hiểu biết của mình mà không chịu nhận mình sai sót. Có nhiều người còn lợi dụng tinh thần tự do dân chủ để phản đối lại những quyết định của bề trên. Họ lẩm bẩm kêu ca khi bị truyền phải vâng phục, “bằng mặt mà không bằng lòng”. Họ quên rằng, lời khấn vâng phục mà họ đã tuyên khấn là vâng phục Thiên Chúa, và bề trên chỉ là người thay mặt. Một cách nào đó, mọi người, đặc biệt các vị bề trên cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn trong khi thực hiện quyền bính trên các người trẻ. Họ tôn trọng những giá trị riêng biệt của từng cá nhân. Họ lắng nghe người trẻ một cách tích cực và cảm thông hơn. Thế nhưng, không vì thế mà các tu sĩ trẻ quá coi thường, thiếu sự tôn trọng.

Khiết tịnh

Khi cuộc sống tu trì gặp khủng hoảng, căng thẳng, không còn niềm vui, mà cộng đoàn không thể chia sẻ thì người tu sĩ trẻ dễ đi tìm sự khoả lấp từ bên ngoài. Khi tâm hồn trống vắng, họ sẽ tìm đến với những niềm vui mà chính họ cũng không nghĩ là sẽ gặp trong cuộc đời. Bên cạnh đó, các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, Internet… truyền tải những hình ảnh độc hại, nội dung đồi truỵ dễ lôi kéo người tu sĩ trẻ vào việc thoả mãn những nhu cầu tâm sinh lý khi đang khủng hoảng. Họ không còn cảm nhận được niềm vui khi phục vụ người khác, đặc biệt những người bất hạnh. Họ không thấy được hạnh phúc khi đến với tha nhân, khi sống cùng cộng đoàn. Họ coi cộng đoàn là địa ngục, tha nhân là gánh nặng. Họ vùng vẫy trong đam mê, trong yếu đuối của xác thịt. Lời khấn khiết tịnh đã trở nên gánh nặng, đè bẹp cuộc đời đáng ra rất hạnh phúc của họ.

Tạm Kết

Cuộc sống chúng ta luôn có những thách đố và khủng hoảng. Hành trình làm con Chúa cũng tồn tại nhiều nghi ngờ và e ngại. Dấn thân theo Đức Kitô, để trở thành người môn đệ đích thực của Người cũng thật chông gai và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một hướng đi nào đó thích hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc. Thế nhưng, điều này còn nhiều bước cản, vì con người thì giới hạn mà khát vọng lại vô cùng.

Vì thế, người tu sĩ trẻ ngày nay cần phải đọc ra được những dấu chỉ của thời đại. Họ cần đọc được ý Chúa muốn nói với mình điều gì qua những biến cố, những sự kiện của bản thân, của những người xung quanh, cũng như những sự kiện của xã hội. Nếu con người không thể sống thiếu cơm bánh, thì có thể nói người tu sĩ trẻ cũng không thể sống thiếu Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4). Nhờ Lời Chúa, người tu sĩ sẽ biết được sự yếu đuối của bản thân, để biết cậy dựa, tin tưởng vào một mình Chúa mà thôi.

Cuối cùng, người tu sĩ trẻ cần thực hiện ba điểm chính yếu của đời tu, đó là: tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và phục vụ người khác. Những người sống trong ơn gọi tu trì hãy cố gắng làm chứng cho mọi người thấy rằng, ai cũng được mời gọi nên thánh. Đồng thời, họ phải là gương sáng cho người Kitô hữu lẫn người ngoài Kitô giáo về lòng yêu thương tha nhân, nhất là những anh chị em gặp nhiều đau khổ trong xã hội. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, thì người tu sĩ phải trở thành chứng nhân đầy sức thuyết phục về một Thiên Chúa Tình Yêu và về đời sống vĩnh cửu mai sau.

Trong đời sống cộng đoàn, người tu sĩ phải làm chứng về các giá trị của tình huynh đệ và sức biến đổi của Tin Mừng. Tất cả những ai bước vào đời tu đều được mời gọi trở thành người đi đầu trong việc tìm kiếm Chúa, một sự tìm kiếm luôn làm dao động lòng người và được bày tỏ hết sức rõ ràng bằng nhiều hình thức tu đức và đời sống tâm linh. Sống cộng đoàn, làm chứng trong thinh lặng và bình an là hình thức thôi thúc mọi người xây dựng một sự hòa hợp lớn hơn trong xã hội. Sống nghèo khó và từ bỏ trong thinh lặng, sống thanh khiết và chân thành, sống quên mình trong tuân phục, tất cả những điều ấy trở nên lời chứng hùng hồn cho bối cảnh ngày nay.[4]

(trích Nội San Chia sẻ số 62)

 

Nguồn tin: http://daminhvn.net

Những đặc sủng mà Thánh Thần thổi vào Giáo Hội rất phong phú. Có những người được mời gọi lập gia đình. Có những người cảm thấy mình hợp với sự độc thân; họ sống giữa đời nhưng không lập gia đình.

Cũng có những người khác dành trọn cuộc đời mình cho Chúa. Người Việt Nam gọi chung tất cả những ai thuộc nhóm này là “người đi tu”, mà ít khi biết rằng trong số những người “độc thân vì Nước Trời” này, có một sự phân chia nữa: những người sống đời tu trong phạm vi giáo phận, dưới quyền Đức Giám Mục và những người sống đời tu trong phạm vi một dòng tu, dưới quyền Bề Trên. Những người đi tu mà tuyên khấn công khai các lời khấn được Giáo Hội chuẩn nhận, dù là nam hay nữ, thì được gọi là tu sĩ (từ chuyên môn gọi là người sống đời thánh hiến). Những người tu đi mà không khấn, dù có là phó tế, linh mục hay giám mục, thì không mang danh xưng này (dù họ đã được thánh hiến).
 
Bởi thế, các chủng sinh tại các chủng viện chỉ là các sinh viên thần học. Họ được gọi là “thầy”, chính vì được mọi người yêu mến, nể trọng vì ước nguyện cao đẹp muốn hiến dâng cuộc đời để phụng sự Chúa của mình, chứ không phải vì họ có gì khác biệt về mặt bí tích so với những người khác. Xét cho cùng, họ chỉ là giáo dân. Nhưng vì đang được đào tạo để hướng đến chức linh mục, phục vụ giáo phận trong tương lai, nên họ phải tập sống trong khuôn khổ: trong cách ăn mặc (mặc áo sutan), cách đi đứng, nói năng sao cho chững chạc, chỉnh chu… Chỉ khi nào chịu chức phó tế, họ mới được tháp nhập vào trong hàng “có chức thánh”. Các nữ tu thì không lãnh nhận chức thánh, nhưng từ khi tuyên khấn, ngay cả khi chưa học triết hay thần học gì cả, họ đã trở thành tu sĩ. Các dòng nam cũng vậy. Khi các tu sĩ dòng nam được phong chức thánh, họ trở thành phó tế-tu sĩ hoặc linh mục-tu sĩ.
 
Sự phân biệt này không nhằm so sánh ai hơn ai, nhưng chỉ để nói đến những đặc nét khác nhau trong cùng một lối sống độc thân vì Nước Trời. Hy sinh cả một đời chỉ lo chuyện nhà Chúa đã là điều quý hoá vô cùng rồi. Nhưng hy sinh ra sao, trong môi trường nào, lo chuyện nhà Chúa thế nào lại là điều khác. Trên bình diện bí tích, cả linh mục triều và linh mục dòng (linh mục-tu sĩ) đều là linh mục, đều được thánh hiến. Nhưng trên bình diện hoạt động, mỗi bên có đặc nét riêng của mình. Trong khi linh mục triều được mời gọi để sống khó nghèo theo gương Đức Giêsu, phải giữ luật độc thân theo quy định của Toà Thánh và hứa vâng phục Giám Mục trong sứ mạng được trao, thì các linh mục dòng không chỉ là được mời gọi nhưng còn cụ thể hoá lời mời gọi ấy qua việc tuyên những lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, và ràng buộc mình với những điều này. Các chủng sinh và linh mục triều chỉ giữ kỷ luật giáo sĩ chứ không hề bị ràng buộc bởi các lời khấn, nên giả như một ngày nào đó, Giáo Hội Công Giáo cho phép linh mục của mình được lập gia đình thì các linh mục triều được phép cưới vợ, trong khi các linh mục dòng thì không thể, vì họ đã khấn với Chúa lời khấn khiết tịnh. Ở Giáo Hội Đông Phương, các chủng sinh có thể cưới vợ trước khi chịu chức linh mục; còn khi đã chịu chức linh mục rồi thì không được cưới vợ nữa. Nhưng nếu một tín hữu thuộc Giáo Hội Đông Phương có ý hướng dâng mình trong một dòng tu thì trong ý hướng sẽ khấn lời khấn khiết tịnh, người đó không được có giao kết hôn phối với người khác.
 
Có rất nhiều định nghĩa về đời tu. Chẳng hạn, đi tu là hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ Giáo hội và con người (như ta vẫn hay nói); đời tu là một cuộc sống hoàn toàn hướng về thánh ý Thiên Chúa trong niềm tin và tình yêu, nỗ lực không ngừng trong cầu nguyện, giữ các mối phúc; hay đi tu là trở thành môn đệ Chúa, ở với Chúa, được Chúa dạy dỗ và sai đi với quyền trừ quỷ (dựa trên Mc 3,13-15). Nhưng những định nghĩa này không giúp ta thấy được đâu là khác biệt giữa tu dòng với tu triều. Ta có thể tự đặt câu hỏi: ngoài chuyện khác nhau trong hoạt động mục vụ và vấn đề thuộc quyền, đâu là sự khác biệt giữa hai lối sống này? Tại sao lại phải tuyên khấn? Không cần khấn các lời khấn, các linh mục triều vẫn có thể sống tốt, phục vụ tốt và trở thành các vị thánh được mà? Vậy đâu là bản chất của lời khấn? Lời khấn trói buộc hay làm người ta tự do hơn?
 
Khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục được gọi là ba lời khuyên Phúc Âm. Thực ra, trong Phúc Âm còn có rất nhiều lời khuyên khác, chứ không chỉ ba điều này. Nhưng đây được xem là ba điều căn cốt, trọng yếu nhất giúp người đi tu noi gương Thầy Chí Thánh của mình, là người đã sống trọn vẹn nó trong hành trình sứ mạng nhận lãnh từ Cha. Vào thời độc tu, người ta chẳng cần khấn hứa gì, chỉ cần rút vào sa mạc sống một mình với Chúa là đủ. Dĩ nhiên, người ta đã sống sự khó nghèo qua việc từ bỏ mọi sự, dù không thực hiện nghi thức chính thức nào. Khi lối sống cộng tu ra đời, điều làm cho một người trở thành tu sĩ là việc mặc tu phục, chứ không phải tuyên khấn. Một thời gian sau, người ta cảm thấy cần phải có lời cam kết rằng mình sẽ cố gắng phục vụ Chúa và sống tốt trong cộng đoàn. Rồi khi cộng đoàn lớn mạnh, lời khấn vâng phục ra đời như một đòi buộc tất yếu để quản trị Đan viện. Tiếp theo đó, thánh Biển Đức đòi các tu sĩ của mình phải khấn vĩnh cư và không ngừng hoán cải. Thánh Âu-tinh thì nói đến độc thân, khó nghèo và chay tịnh. Vào thế kỷ thứ 7, John Climacus nói về độc thân, khó nghèo và vâng phục. Bộ ba lời khấn khó nghèo-khiết tịnh-vâng phục ra đời lần đầu tiên vào năm 1148 trong công thức khấn của các kinh sĩ dòng Geneviene tại Paris. Thánh Phanxicô Assisi sử dụng bộ ba này trong bản sửa luật dòng đầu tiên của Ngài. Giữa thế kỷ 13, các nữ tu Clara cũng khấn ba lời khấn này. Thánh Tôma Aquinô đã gọi ba điều này là ba yếu tố căn bản của đời tu.
 
Người Kitô hữu nào cũng được mời gọi để sống đức ái và hoàn thiện bản thân mà không cần xin phép ai. Nhưng để sống trong một dòng tu và trở thành một tu sĩ thì phải được Giáo Hội chuẩn nhận. Ta có thể nói nôm na thế này: sống đời dâng hiến [ở đây muốn nói đến những người sống trong dòng tu và tuyên các lời khấn] là một cách [trong nhiều cách] bước theo Đức Kitô vác thập giá trong linh đạo của vị sáng lập để phục vụ Giáo Hội và xã hội cách hiệu quả nhất. Thật khó để diễn tả cho rõ việc tại sao một số người không hài lòng khi chỉ đơn thuần là sống đức ái và phục vụ Đức Kitô. Họ muốn “tự trói buộc” mình với Đức Kitô qua các lời khấn để thấy mình gần gũi hơn, thiết thân hơn với Ngài. Sự ràng buộc này không chỉ nằm trên bình diện lề luật, nhưng trên hết và trước hết là do sự thúc đẩy của tình yêu. Các lời khấn là gợi ý của Thánh Thần, giúp những ai có con tim bừng cháy lửa yêu dành cho Giêsu đáp lại lời mời của Ngài trong cõi lòng sâu thẳm.
 
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ 

Nguồn: https://giaophanvinhlong.net

Có lẽ, vẫn còn nhiều những “bóng đêm” khác làm cho đời sống thánh hiến bị mất tín trong mắt của người đời. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận được thực trạng đó

 Người đời vẫn cho rằng: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan” thế nhưng đâu phải đời tu của ai cũng giống ai ? Tu thời nào cũng như thời nào? Cộng đoàn nào cũng giống cộng đoàn nào ? Đời sống thánh hiến là một ơn gọi đặc biệt mà Chúa ban tặng cho những người mà Ngài muốn gọi và chọn. Tuy nhiên để đạt tới sự viên mãn trong đời sống thánh hiến, một đời tu đúng nghĩa của nó, người sống đời thánh hiến phải nỗ lực về nhiều phương diện khác nhau để trở nên một con người tu sĩ thực sự. Đời sống đặc biệt ấy đòi hỏi người tu sĩ phải trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc sống, vui cũng nhiều mà đau khổ cũng không ít. Bên cạnh đó trong đời tu, người thánh hiến cũng có thể gặp phải những “bóng đêm”. Vậy những “bóng đêm”ấy là gì?

Thực tế mà nói, nhiều giáo dân ở Giáo Hội Việt Nam vẫn quan niệm rằng, đời tu là sung sướng nhất, đời tu là hạnh phúc nhất. Thế nhưng người ta quên rằng, những người sống đời thánh hiến vẫn chỉ là con người yếu đuối mỏng giòn. Vì vẫn còn là con người nên họ không tránh khỏi những đau khổ và những cái họ gọi là “bóng đêm” trong suốt đời thánh hiến của họ. “Bóng đêm” lớn nhất trong đời tu, theo tôi có lẽ đó là bóng dáng của dục vọng, vẫn là một thứ luôn luẩn quẩn trong đời họ. Là một con người, ai ai cũng không tránh khỏi cám dỗ.

Trong số đó, ba cám dỗ lớn nhất của con người là TÌNH – TIỀN – TÀI. Là một con người bình thường, xét theo người đó được sinh ra theo lẽ tự nhiên và mang trên mình đầy đủ hiện thế và tiềm thể của một con người như Chúa dựng nên từ ban đầu, ai cũng chịu tác động của thế giới xung quanh, của xã hội bên ngoài. Chính những tác động ấy làm cho con người biến đổi theo thời gian. Người sống đời thánh hiến cũng vậy, vì đơn giản họ vẫn là những con người bình thường như bao người khác. Thậm chí, khi họ bước theo ơn gọi tu trì, tức là họ đang đi ngược với “dòng đời” nổi trôi với nhiều bất công, bạo lực, khoái lạc…thì họ lại càng bị chính những thứ đó cám dỗ đeo đuổi. “Bóng đêm” dục vọng vẫn luôn rình rập bên cạnh họ và luôn tìm cách để xâm chiếm họ – những người đang đấu tranh với chủ nghĩa thế tục. Và chúng ta phải thừa nhận rằng, rất nhiều người trong số họ đã không thể thoát ra được “bóng đêm” ấy.

Thực tế hiện nay, một cách nào đó trong nhiều cộng đoàn dòng tu vẫn đang bị “bóng đêm” dục vọng lẩn trốn bên trong. Có thể họ nhận thấy điều đó, nhưng cũng có thể họ không nhận ra điều đó. Vì ma quỷ cám dỗ chúng ta theo một cách rất khôn ngoan. Chúng tìm cách để đánh vào đúng “điểm yếu” của chúng ta. Trong một đời sống cộng đoàn, chúng sẽ tìm cách phá hủy từ mỗi cá nhân cách thầm kín. Những yếu tố khiến cho người tu sĩ dễ sa vào những ham muốn dục vọng là: họ sống độc thân – điều mà người ta cho là bất thường so với tự nhiên; họ đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin kỹ thuật phát triển; họ đang sống trong một xã hội phát triển và có nhiều thay đổi; họ đang sống trong những điều kiện đầy đủ về mọi mặt của đời tu, họ có được nhiều ưu đãi, tự do và thoải mái hơn so với đời tu trước đây,…

Những yếu tố đó đã kéo họ đi theo con đường có xu hướng thế tục hóa đời tu một cách đáng báo động. Rất nhiều tu sĩ vì không nhận thấy rõ những cạm bẫy đó trong đời tu nên họ đã tìm cách thỏa mãn tính dục, thỏa mãn những đam mê của mình và rồi họ đã đi quá sâu vào vòng luẩn quẩn của cám dỗ ấy mà không thoát ra được. Dĩ nhiên, những người đó không bao giờ để lộ ra bên ngoài những việc họ làm, và họ luôn tìm cách để dấu giếm, lén lút làm những việc đó và chỉ mình họ biết. Họ cũng không dám chia sẻ với người khác về những chuyện riêng cá nhân của họ, và thế là họ chỉ giẫm chân tại chỗ mà không tìm được lối thoát. Chúng ta đã chứng kiến rất nhiều hoàn cảnh của nhiều tu sĩ, họ đã phải chấp nhận rời khỏi đời tu chỉ vì họ đã không tìm ra lối thoát khi bị rơi vào “bóng đêm” của dục vọng, của đam mê, của tình cảm đi quá giới hạn.

Chán nản, mất kiên nhẫn cũng là những “bóng đêm” không thể không có trong đời tu. Nói theo cách điện ảnh: “Đời tu là một vở kịch được diễn đi diễn lại hằng ngày.” Nghĩa là, công việc mà người tu sĩ làm hằng ngày, không có gì thay đổi, ngày nào cũng như vậy, ngày nào cũng giờ đó thức dậy, đi lễ, đọc kinh, ăn, học, làm việc… dường như cùng một kịch bản như nhau cho suốt cả đời tu. Nói như vậy thì có vẻ hơi tiêu cực, có vẻ như đời tu dành cho những người rảnh rỗi, dành cho những người ăn không ngồi rồi và chỉ làm những công việc nhẹ nhàng đó mà thôi. Thế nhưng, đâu phải đơn giản như vậy? Quả thật đời tu lắm lúc khiến cho người tu sĩ cảm thấy mệt mỏi vì công việc, vì đời sống cộng đoàn, vì đời sống thiêng liêng…và thực tế cho thấy nhiều bạn trẻ thời này không chịu được thực trạng đó khi họ tìm hiểu ơn gọi của mình trong đời sống thánh hiến. Nói như vậy, chẳng lẽ đời sống thánh hiến sẽ mất dần trong tương lai vì chẳng có gì mới mẻ, chẳng có gì hay để lôi cuốn các bản trẻ ư ? Không hẳn là như vậy. Đó chỉ là một khía cạnh nào đó được nhìn nhận theo nghĩa tiêu cực.

Đối với tôi, đôi lúc quả thực đời sống tu trì làm cho tôi cảm thấy mệt mỏi, không còn tha thiết với nó. Thế nhưng, đó chỉ là những lúc tôi bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh mà thôi. Còn trong sâu thẳm, tôi vẫn cảm nhận được rằng, tôi rất hạnh phúc vì tôi được vinh dự sống đời thánh hiến, một ơn gọi đặc biệt mà Chúa đang mời tôi tìm hiểu không ngừng thánh ý của Ngài. Và chỉ khi nhận ra được điều đó, tôi mới cảm thấy mình đang hạnh phúc hơn nhiều so với những người khác. Nhìn vào đời tu, có lẽ ai cũng có một suy nghĩ khi biết rằng để trở thành một tu sĩ hay linh mục phải trải qua một chặng đường dài dằng dặc. Và đó là một trong những lý do làm cho người tu sĩ cảm thấy chán nản và không đủ kiên nhẫn để đi tiếp.

Một trong những “bóng đêm” khác của đời tu là sự làm dụng quyền lực nơi một số người tu sĩ, linh mục. Điều này không tránh khỏi trong các cộng đoàn tu trì, hay nơi các giáo phận. Nó là “bóng đêm” vì nó vẫn đang ẩn mình trong các cộng đoàn tu trì hay giáo phận, mà nhiều khi người ta vẫn chưa tìm được cách loại nó ra khỏi đời tu. Thực tế cho thấy, có rất nhiều linh mục, tu sĩ khi đã đạt được mục đích của mình, thì họ đã quay ngược lại với những gì họ được học, được đào tạo, được linh hướng.

Theo tâm lý học, đó là một tình trạng rất nguy hiểm, đặc biệt đối với những người sống trong sự chịu đựng, cố kìm nén trong suốt quá trình đào tạo mà không tìm cách giải tỏa những uẩn khúc, ức chế. Họ cố gắng dồn nén chúng đi vào tiềm thức và không tìm cách cho chúng thoát ra ngoài đúng lúc, thế rồi, khi đã đạt được đích điểm của mình, tức là trở thành người có “quyền cao chức trọng” họ bắt đầu tung hết tất cả những tiềm thức bên trong ra và áp đặt trên người anh chị em của mình. Nhiều người đang có não trạng chung đó, nhưng trong số họ vẫn còn những người biết tìm cách kiềm chế bản thân để đi theo hướng ngược lại với ký ức xấu trong quá khứ. Những người đó mới thực sự là những người trưởng thành và ý thức được ơn gọi của mình. Còn những ai bị khủng hoảng tinh thần trong quá khứ nhưng không hiểu được điều đó để rồi tìm cách “khủng bố” lại người khác và đây là một vấn đề thật là nguy hiểm cho người tu sĩ. Đức Ki-tô đã dạy chúng ta: “Ai muốn làm lớn trong anh em thì phải làm người phục vụ anhem.”(Mc 10,43). Vậy, là người tu sĩ, chúng ta đang đi theo thầy Chí Thánh của mình, tại sao chúng ta lại không noi theo những gì mà Thầy mình đã nêu gương ?

Ham muốn của cải vật chất cũng một “bóng đêm” không phải là không có trong đời sống thánh hiến trong thời đại hôm nay. Khi thế giới bên ngoài đang chạy theo chủ nghĩa thế tục thì đời sống thánh hiến cũng đang bị ảnh hưởng rất mạnh về điều này. Người ta vẫn thường nói: “Lòng tham của con người là vô đáy”. Đây là một kinh nghiệm thực tế trong xã hội con người. Như thể con người sinh ra đã bị gắn cho một cái nhãn của lòng tham lam. Hầu như con người không chịu chấp nhận với những gì mình đang có nhưng luôn tìm cách để có được nhiều hơn. Và điều đó cũng đang là một thực trạng rất thật trong đời tu.Dù là một tu sĩ nhưng lòng tham của cải vật chất của một số người vẫn khôngthoát ra được khỏi con người của họ. Họ cứ ở mãi trong vòng xoay của vật chất thế tục mà chưa nhận ra được điều gì là quan trong nhất của đời sống thánh hiến. Chúng ta rất buồn khi nghe biết một số anh chị em vì tiền bạc mà đánh mất chính mình, phản bội lại lời hứa với Chúa và từ bỏ anh chị em của mình. Họ chỉ muốn nhận mà chẳng bao giờ biết cho đi. Là người tu sĩ, chúng ta phải hiểu như thế nào về của cải vật chất trong đời sống thánh hiến ?

Có lẽ, vẫn còn nhiều những “bóng đêm” khác làm cho đời sống thánh hiến bị mất tín trong mắt của người đời. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận được thực trạng đó. Chúng ta cần phải học cách chấp nhận để lớn lên hơn là phủ nhận hay thất vọng, vì “ơn Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được thể hiện trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 9). Đó chính là niềm hy vọng cho chúng ta khi mà chúng ta phải đón nhận một thực trạng đáng buồn trên. Nhưng chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng vô biên của Chúa. Khi chúng ta yếu chính là lúc chúng ta mạnh. Chúng ta hãy cùng nhau nhận ra những “bóng đêm” đó và hãy chiến đấu với chúng để xứng đáng là những môn đệ trung tín của Chúa Giê-su.

Joseph Nguyễn Văn Định, C.S.Sp

Nguồn: https://giaophanvinhlong.net

Các kỹ năng đó có thể cung cấp cho chúng ta một khuôn khổ để đánh giá sự trưởng thành trong bậc độc thân. Chúng sẽ thúc đẩy chúng ta vươn ra ngoài thứ ngôn ngữ cao thượng mà chúng ta thường dùng để nói về đời sống độc thân và yêu cầu chúng ta đối diện với những tác phong hiện có trong việc thực thi điều chúng ta tuyên khấn. 

 Ở đây tôi không muốn trình bày các nguyên tắc Kinh thánh hay thần học về đức khiết tịnh trong đời sống thánh hiến, và cũng không muốn tìm hiểu ý nghĩa thiêng liêng hay thần nhiệm của đức khiết tịnh. Trong những thập niên qua, các suy tư như thế đã được các tác giả khác đề cập một cách khá mạnh mẽ. Mục đích của tôi thì khác. Tưởng rằng độc giả của tạp chí này đã hiểu và đánh giá cao đức khiết tịnh, nên tôi tập chú vào vấn đề này: Đâu là những kỹ năng cần có để có thể sống sự cam kết này một cách trung tín và mang lại sự sống?

Để trả lời cho câu hỏi này, hai năm qua tôi buộc phải đọc tác phẩm “Tâm Lý Tính Dục Và Sự Phát Triển Các Kỹ Năng Độc Thân” của cha Raymond Carey. Nhiều độc giả đã từng biết cha Carey mạnh mẽ ủng hộ phương pháp nghiên cứu tác phong trong việc đánh giá sự thích đáng của các ứng sinh tiến tới chức linh mục và đời sống thánh hiến. Thay vì dựa trên những phát biểu của các ứng sinh về giá trị của sự độc thân (những lời phát biểu đó có thể rất cao thượng và xác tín mà không có nền tảng trong kinh nghiệm sống), ngay cả các bài trắc nghiệm, Carey lượng giá khả năng sống độc thân dựa trên lịch sử của con người. Nguyên tắc cơ bản: hành vi quá khứ dự báo hành vi tương lai. Để lượng giá khả năng sống lời khấn khiết tịnh, câu hỏi chính yếu là: ứng sinh muốn đời sống thánh hiến có phát huy các kỹ năng cần thiết để sống độc thân không?

Carey liệt kê một cách văn gọn 27 kỹ năng. Tôi nhận thấy danh sách này hơi nhiều, nên tôi chọn ra một vài kỹ năng để chia sẻ trong các dịp tĩnh tâm của các tu sĩ đã khấn trọn đời. Sau đó, các người dự tĩnh tâm khuyến khích tôi viết lại các bài nói chuyện đó. Đó là gốc tích của bài viết này. Tôi sẽ dựa theo Carey  mà phân biệt hai loại kỹ năng: kỹ năng nội tâm (nhằm điều khiển tình trạng ý thức nội tâm) và kỹ năng tương giao liên vị ( ứng xử với những người khác), nhưng thỉnh thoảng tôi lại đặt cho các kỹ năng  một tên gọi khác.

A.Các Kỹ Năng Nội Tâm

Biết Mình

Một lần nọ, bác sĩ William Menninger lưu ý rằng ý nghĩa đầu tiên của sự thân mật là “yếu tố cấu thành bản ngã nội tâm của một người.” Điều này ngụ ý rằng chúng ta phải thân thiết với chính mình trước – biết mình – thì mới hy vọng có thể thân mật với người khác. “Bạn hãy biết mình,” đó là một châm ngôn nổi tiếng của cổ nhân. Thánh nữ Tê-rê-xa A-vi-la thường nói, “phần lớn các vấn đề trong đời sống thiêng liêng bắt nguồn từ việc không biết mình.” Tại sao việc biết mình có tầm quan trọng như thế? Bởi vì biết mình là điều kiện tiên quyết của tự do chọn lựa. Nếu tôi biết tâm trạng của tôi khi tôi cảm thấy buồn, không thể thích nghi, tự tin, tức giận, hài lòng hay chán nản, tôi sẽ có được những dữ liệu quan trọng để lấy những quyết định tốt hơn. Trái lại, nếu tôi không nhận thức các tâm trạng nội tâm đó, rất có khả năng là tôi sẽ ngã theo hay bị thúc đẩy đi theo những chọn lựa mà mình không thật sự muốn. Sau đó sẽ hối tiếc: “Tại sao tôi lại làm như vậy?” Những năng động tương tự cũng có hiệu lực  đối với nhận thức– hay thiếu nhận thức - của tôi về  các mẫu thức cố hữu là thích làm vui lòng người ta, sự thúc bách hoạt động, tranh đua hay đòi hỏi người khác làm theo ý mình. Nếu không biết mình, thì không thể thay đổi hay hoán cải.

Biết mình là điều hết sức thiết yếu trong vấn đề khiết tịnh. Tôi cần biết điều gì đang thúc bách tôi: các cảm xúc và ước muốn kích dục? khuynh hướng muốn kết bạn  để thoả mãn lòng tự cao tự đại của tôi hay để  xoa dịu cái tôi bầm dập? Nhu cầu cảm thấy mình quan trọng ít là đối với một người, hầu bù đắp cảm xúc thất bại trong thừa tác vụ? Nhận ra những điều đó không tất yếu báo trước một đời sống đôc thân trung thực, nhưng tôi cần nhận ra chúng, nếu tôi muốn điều khiển chúng. Ở đây, kỹ năng cần có chính là khả năng nắm bắt và nhận diện chính xác các cảm xúc và khuynh hướng nội tâm.

Làm sao phát huy kỹ năng biết mình? Phương thế cơ bản là suy tư nội tâm, như tiến trình được cha George Aschenbrenner mô tả trong bài báo nổi tiếng “Xét mình.”[2] Các phương tiện khác như trắc nghiệm Myers-Briggs hay Chín loại tính tình cũng hữu ích trong việc biết mình. Cũng vậy, viết nhật ký và linh hướng cũng hữu ích trong việc biết mình.

Vui Thích Ở Một Mình

Chúng ta đều nhận thấy sự trái nghịch của điều này: dường như người ta không thể đứng một mình. Điều này không hẳn là chuyện đương nhiên của những người hướng ngoại. Phần lớn nhưng người hướng ngoại vẫn phát huy khả năng sống tĩnh lặng khi tuổi tác bắt đầu cao; đó là một trong những nhiệm vụ của tuổi trung niên. Ngoài ra chúng ta cũng bắt gặp các tu sĩ luôn luôn bận rộn làm một chuyện gì đó; hình như họ không thể ở yên hay thinh lặng mà suy tư. Người ta tự hỏi: họ đang lẩn tránh hay chạy trốn điều gì? Có lẽ một tiếng nói nào đó bên trong tâm hồn đang khiển trách họ, “bạn sẽ không bao giờ tốt đủ, sẽ không bao giờ thành công.”

Trong bất cứ trường hợp nào, người độc thân cần phát huy khả năng sống một mình, vui thích với chính mình. Đó là một đòi hỏi của thực tế. Chọn lựa không kết hôn, chúng ta không thể chờ đợi một ai đó luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngay cả trong những cộng đoàn tu trì tốt nhất, thì cũng có những khi chẳng trông thấy ai ở nhà. Trong thừa tác vụ cũng như thế, ngay cả trong những ngày cộng tác với nhau. Phần lớn thời gian sống của chúng ta là ở một mình – trong văn phòng, phòng ngủ, xe hơi. Kỹ năng cần thiết ở đây là khả năng chấp nhận thực tế và ứng xử với thực tế một cách sáng tạo.

Một vài tu sĩ có thể cần được trị liệu để giúp họ hiểu và kiểm soát những tiếng nói nội tâm và các cảm xúc hiếu động thúc bách họ tránh né sự cô đơn.  Nhưng chúng ta thường thủ đắc kỹ năng này nhờ thời gian và tập luyện. Chúng ta bắt đầu cảm thấy thích có thời gian yên tĩnh để đọc sách, đi bộ, nghe nhạc. Tuy nhiên, để có thể tập luyện điều trên, phần lớn trong chúng ta có lẽ cần có một căn phòng hay văn phòng tương đối tiện nghi và khung cảnh chung quanh yên tĩnh trong một mức độ nào đó.

Ở đây cũng nên nhắc đến điều mà Carey gọi là “kỹ năng kiểm soát trí tưởng tượng.” Điều này rõ ràng muốn loại trừ những hành vi nuông chiều bản năng tính dục qua việc đọc các sách báo hay xem các phim ảnh kích dục, đồng thời cũng muốn loại trừ việc để cho trí tưởng tượng nuôi dưỡng những hình ảnh “có thể đã xuất hiện” (hay vẫn còn hiện diện trong tâm trí) về các quan hệ tình ái / tính dục. Hẳn thích đáng khi cảm thấy đau buồn vì phải từ bỏ những điều ấy, nhưng đừng để trí tưởng tượng tiếp tục ôn lại nhưng điều ấy.

Thánh Bonaventura kể lại một câu chuyện trong cuộc đời thánh Phan-xi-cô nhằm nêu gương cho hậu thế. Một đêm nọ, khi Phan-xi-cô bị cám dỗ về dâm dục, ngài liền chạy ra ngoài sân đầy tuyết và  lấy tuyết đắp thành nhiều tượng người. Rồi ngài tự nhủ: “Phan-xi-cô, hãy nhìn này! Tượng lớn này là vợ anh và các tượng nhỏ kia là các con anh đấy. Nào hãy nhanh chân tìm thức ăn và áo mặc cho họ đi, bởi họ đang đói. Nhưng nếu việc chăm sóc cho họ quá vất vả cho anh, thì anh hãy cứ phụng sự một mình Thiên Chúa thôi.” Câu chuyện bình dị ấy muốn nhắc nhở cho chúng ta rằng sự khiết tịnh đôi khi cũng cần một liều thuốc mạnh của “liệu pháp thực tế” để lôi chúng ta ra khỏi mơ mộng hảo huyền. Những “thảm cỏ xanh” bên kia có thể trở thành một đêm giá lạnh hay một gia đình đói khổ.

Cắm rễ trong tình yêu Thiên Chúa, tôi nhận thấy rằng điều đó không phải là một kỹ năng mà là một xác tín. Tuy nhiên, cần phải thủ đắc và củng cố qua hành vi. Ban đầu, có lẽ phần đông chúng ta chấp nhận bậc độc thân như một phần của một đời tu hay bậc độc thân có ý nghĩa vì mang lại cho chúng ta nhiều tự do hơn để phục vụ. Nhưng điều đó sẽ không đủ để giúp chúng ta trung tín với lời cam kết khiết tịnh trong một hành trình dài và gian khó. Cần một điều gì đó thâm sâu hơn, bổ ích cho tâm hồn hơn. Stephen Rossetti gọi đó là “kinh nghiệm độc thân.”[3]

Rossetti trích dẫn lời nhà tâm lý Ignace Lepp nói rằng sự khiết tịnh của những người thánh hiến cho Đức Ki-tô phải “được đối trọng với một đời sống thần nhiệm đích thật.” Vì thế, phải có một sự nối kết cần thiết giữa độc thân và thần nhiệm.  Rossetti sử dụng định nghĩa của Karl Rahner về thần nhiệm như là “một kinh nghiệm gặp gỡ và giao tiếp đích thật với Thiên Chúa, mặc dù chỉ bằng suy niệm.”  Chính qua kinh nghiệm mình được bao bọc trong vòng tay yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa mà đức khiết tịnh được bảo vệ. Kinh nghiệm đó không phải là một điều gì đó xảy ra một lần rồi thôi, nhưng là cả một chuỗi những cuộc gặp gỡ thật sự giúp làm mới và gia tăng sự tín thác của chúng ta cho Thiên Chúa. Rossetti nói: “Chính kinh nghiệm này và tầm nhìn phát xuất từ kinh nghiệm này là nền móng cho hoạt động tông đồ của người độc thân. Kinh nghiệm sống độc thân cuối cùng sẽ trở thành lời đáp trả trọn vẹn cho câu hỏi cơ bản ‘Anh có yêu mến Thầy không?’ Kinh nghiệm này cung cấp cho anh/chị một hiến chương và mang lại sự sống cho thừa tác vụ của anh/chị. Nếu không có tiến trình tăng trưởng trong sự thân tình với Đức Ki-tô, thừa tác vụ của người độc thân sẽ không vững và sẽ trôi dạt theo mọi luồng gió thần học và tâm lý đang xảy ra.

Theo tôi, kỹ năng cần có ở đây là sẵn sàng đi vào kinh nghiệm đó và cổ võ kinh nghiệm đó. Một cách cụ thể, đó là cầu nguyện thường xuyên và cá nhân. Nếu đời sống độc thân đặt nền trên mối tương quan thân tình của tôi với Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn bao bọc tôi với tình yêu vô điều kiện, thì mối tương quan đó có thể tăng triển và chỉ có thể duy trì  nhờ sự tiếp xúc, mở lòng ra với Mầu nhiệm đó và để cho Đức Ki-tô phục sinh thân thương gọi tôi là “bạn.” Nhà tâm lý trị liệu nói rõ: “Cầu nguyện là điều cơ bản và không thể thiếu của đời sống độc thân, bởi vì không có cách nào khác hữu hiệu hơn để đương đầu với Thiên Chúa – Bản ngã – Người khác trong cái cốt lõi của thực tại độc thân… Tất cả những mối tương quan và tình bạn khác đặt nền tảng trên cái cốt lõi này, hay cuối cùng, các mối tương quan đó sẽ thất bại nhìn dưới góc độ của đời sống độc thân hay tình yêu độc thân. Ba mươi lăm năm tìm hiểu đời sống độc thân của các tu sĩ, tôi chưa bao giờ thấy một ngoại lệ nào khác đi ngoài quy tắc nền tảng này: cầu nguyện là yếu tố cần thiết để duy trì bậc sống độc thân.”

Quý Trọng Tính Dục

Quý trọng tính dục liên hệ ít nhất đến hai yếu tố này: thứ nhất là đánh giá tính dục như một năng lực tích cực của đời sống. Trong tập sách gần đây của tôi, Đi Tìm Tâm Hồn Cường Tráng, tôi nhận thấy rằng một trong các từ mà Kinh Thánh người do thái dùng để chỉ “người nam” là Zakar. Theo nghĩa đen, từ này ám chỉ dương vật. Đối với người nam trong xã hội Do thái, nghi thức cắt bì mang một ý nghĩa thiêng liêng sâu xa: đó là dấu chỉ của việc ký kết giao ước với Thiên Chúa, cũng như căn tính dân tộc của mình. Bởi vậy, mỗi khi nhìn hay sử dụng dương vật, anh nhớ rằng: “ Tôi là người Do thái. Tôi thuộc về dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Tôi đã được cung hiến cho Thiên Chúa.”

Thật tương phản với việc xã hội hoá của chúng ta về tính dục. Không có một nghi thức thánh thiêng nào giúp chúng ta quý trọng tính dục chúng ta. Nền văn hoá chung quanh chúng ta có khuynh hướng thần tượng hoá tính dục, trong khi việc huấn luyện các tu sĩ lại có khuynh hướng biến nó thành đối tượng của sự hổ thẹn. Điều thiết yếu là các người độc thân biết đánh giá năng lực tính dục của mình như một quà tặng của Thiên Chúa và cần hướng năng lực đó đến các hình thức yêu thương không có quan hệ tính dục và sáng tạo.

Thứ hai, kỹ năng này liên hệ đến việc thanh thản nhận thức chiều hướng tính dục của mình. May mắn thay, xã hội hôm nay trở nên cởi mở hơn đối với khuynh hướng đồng tính luyến ái và vì thế, đời sống thánh hiến cũng cởi mở hơn. Ngày nay, khắp nơi đều thừa nhận rằng trong cộng đoàn chúng ta cũng có những tu sĩ có khuynh hướng đồng tính huyến ái và những tu sĩ lưỡng tính, họ là những người có một đời sống thiêng liêng sâu sắc, thi hành thừa tác vụ một cách hiệu quả, và trung thành với đời sống độc thân chẳng thua kém những tu sĩ khác. Chúng ta đón nhận tất cả. Hy vọng rằng chúng ta sẽ đạt tới điều này: (1) Chúng ta sẽ không dung thứ hay bao che những hành vi cố ý vi phạm sự khiết tịnh độc thân; (2) Chúng ta sẽ không dung thứ bất cứ hình thức kỳ thị nào đối với anh / chị em vì khuynh hướng tính dục của họ; (3) Chúng ta sẽ không đòi hỏi một sư hoàn hảo về đức khiết tịnh – nhưng chỉ yêu cầu mỗi người, ngay cả khi  lầm lỗi hay mắc tội, hãy nỗ lực lớn lên, hướng tới sự trung tín và yêu thương trong đời sống độc thân vì Nước Thiên Chúa.

B. Các Kỹ Năng Trong Tương Quan Liên Vị

Phần đông các tu sĩ sống độc thân cuối cùng cũng biết kiểm soát sự thúc bách của bản năng tính dục – nhờ sự khôn ngoan (kiềm chế trí tưởng tượng), kỷ luật bản thân, cầu nguyện và ơn Chúa. Tuy nhiên, điều nan giải hơn chính là việc đối phó với các ước muốn sống thân mật về mặt cảm xúc: kinh nghiệm về sự gần gũi, chia sẻ, và trao đổi tình cảm ít nữa với một người khác như một cách thức chữa lành cảm xúc cô đơn. Người độc thân biết rằng họ được kêu gọi để yêu thương những kẻ được uỷ thác cho họ, cho dầu tình yêu này thường là một chiều và ít được đáp lại. Hơn nữa, người độc thân có thể và phải có những tình bạn mang tính chất hỗ tương. Tuy nhiên, lời khấn khiết tịnh đòi buộc phải từ bỏ nỗi khao khát có riêng “một người luôn luôn ở bên cạnh tôi.” Hình thức thân mật này chỉ có ở trong hôn nhân. Sự từ bỏ đó không chỉ cần phải có một động cơ thiêng liêng cao cả, nhưng cũng bao gồm những loại kỹ năng khác, tức làkỹ năng trong tương quan liên vị.

Kỹ Năng Trong Việc Chăm Sóc

Đây có lẽ là loại kỹ năng dễ hiểu nhất mà phần đông các tu sĩ khá thành thạo. Lời khấn khiết tịnh không làm cho chúng ta thụ động và gắn bó với bản thân và với Thiên Chúa. (Nhận thấy các tu sĩ khư khư bảo vệ thời giờ và sự tự do của mình, một người nọ đã nói: “bạn buộc phải nghĩ rằng các lời khấn cho phép họ trở nên lười biếng!”

Thật thế, độc thân có mục đích làm cho chúng ta được tự do để tập trung năng lực yêu thương và năng lực tính dục vào việc yêu thương toàn dân Thiên Chúa, hơn là yêu thương một người phối ngẫu và con cái. Đó là một lời mời gọi hãy sáng tạo và trao ban sự sống trên bình diện tinh thần. Điều này cần có một khả năng tuy đơn giản, nhưng đòi hỏi khắt khe, đó là lắng nghe các nhu cầu của dân chúng, chỉ cần “ở đó” với họ, ngay cả khi chúng ta không thể giải quyết vấn đề của họ hay làm vơi nhẹ gánh nặng của họ. Điều này đôi khi cần phải có kỹ năng mời gọi họ chia sẻ: “Hình như bạn cần trao đổi, tôi sẵn sàng nghe bạn,” hay “ Hôm nay bạn cảm thấy thế nào?” hay “Dự án đó tiến triển ra sao?”

Quả vậy, đức khiết tịnh thánh hiến phải thanh luyện và mở rộng khả năng yêu thương chứ đừng thu hẹp khả năng đó lại. “Sự hiện diện chăm chú” không dừng lại nơi những người tốt lành và có duyên là những người dễ mến, nhưng thúc đẩy chúng ta yêu thương dân Thiên chúa nhiều hơn, kể cả những người gắt gỏng, vô duyên; họ là những người túng thiếu nhất và có lẽ không có khả năng đáp đền. Johannes Metz thúc dục những người độc thân biểu lộ sư liên đới với những người bị tổn thương dưới mọi hình thức: “Chúng ta chỉ có thể loan báo rằng Thiên yêu thương những người bất hạnh… nếu chúng ta không nghe theo bản năng mà tránh né những người bất hạnh và dửng dưng với những người bị cô lập và thấp cổ bé miệng.”[4]

Kỹ Năng Giải Bày Tâm Sự Cách Thích Hợp

Đây là thuật ngữ Raymond Carey dùng để chỉ việc “bộc lộ bản thân.” Đó là khả năng và thiện chí muốn giãi bày thế giới nội tâm của mình cho người khác. Vì lý do tâm lý và văn hoá, kỹ năng này đặc biệt khó khăn đối với người nam. Từ rất sớm, phần đông nam giới học cách gìn giữ các suy nghĩ và cảm xúc cho riêng mình. Một cách nào đó, làm như thế thì có vẻ “nam nhi” hơn. Có lẽ quá mạo hiểm khi để cho người khác đi vào thế giới riêng tư của bạn: người ta có thể khám phá các yếu điểm và khai thác. Hay có lẽ vì nam giới chúng ta đã không học thứ ngôn ngữ diễn tả cảm xúc và ước mơ, hy vọng và sợ hãi. Hậu quả là nhiều người nam nổi tiếng là “người kín đáo” mà không ai (ít là cộng đoàn tu trì) thật sự biết họ.

Trong bất cứ trường hợp nào, những người trong cộng đoàn tu trì thường ít bộc lộc bản thân. Những cuộc trao đổi thường giới hạn trong “những chuyện” khôi hài hay “giải quyết các vấn đề trên thế giới” bằng cách bày tỏ ý kiến về việc một ai đó phải làm. Chúng ta ít khi chia sẻ với người khác những ưu tư, các nỗi thất vọng, các giá trị và đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ rằng họ không muốn bộc lộ bản thân là vì những lý do chính đáng như: chúng ta không muốn chất gánh nặng lên vai người khác, chúng ta sợ bị phê phán, chỉ trích, trở thành đề tài bàn tán  ngoài cộng đoàn. Phải thừa nhận rằng có một sự sự căng thẳng giữa nhu cầu riêng tư và nhu cầu bộc lộ bản thân. Nhưng nếu chúng ta sống hoàn toàn riêng tư, chúng ta sẽ không cảm nghiệm sự phong phú của việc chia sẻ với nhau, sự ấm áp của việc tôn trọng lẫn nhau và chấp nhận những khác biệt, sự quan tâm chân thành của anh em và chị em của chúng ta trong Chúa. Tắt một lời, chúng ta không cảm nghiệm được nỗi cô đơn được chữa lành. Đàng khác, khi người tu sĩ không thể bộc lộ bản thân một cách lành mạnh trong cộng đoàn, họ thường tìm cách bộc lộ với người bên ngoài. Mặc dầu, đó có thể là một ơn cứu độ ban tặng cho người ấy, nhưng cũng làm suy yếu mối dây liên kết trong cộng đoàn, và có thể đưa đẩy người tu sĩ tới những mối tương quan thân mật vi phạm sự cam kết độc thân. Điều này sẽ đưa đến kỹ năng sau đây.

Kỹ Năng Trong Việc Phát Huy Những Tình Bạn Tốt

Một trong những sai lầm của việc huấn luyện về đời sống độc thân trong quá khứ là tưởng rằng tình yêu đối với Thiên Chúa một cách nào đó có thể loại bỏ hay thay thế nhu cầu tình yêu nhân loại. Một trong những nỗi lo sợ của những người chọn lựa hay kiên trì trong bậc sống độc thân hẳn là: Tôi có được yêu thương không? Cuộc đời tôi sẽ kết thúc trong cô đơn chăng?

Tôi tin rằng hôm nay chúng ta có được một sự hiểu biết toàn diện hơn về đức khiết tịnh. Chúng ta nhận biết rằng tình bạn lành mạnh không những không làm thiệt hại cho đời sống độc thân, nhưng còn có thể sinh ích lợi cách tích cực cho đời sống độc thân. Chúng ta ghi nhận rằng ngay cả Chúa Giê-su cũng có những người bạn thân thiết. Một nghiên cứu của Uỷ ban Giám mục Hoa kỳ về đời sống linh mục  và thừa tác vụ đã kết luận rằng: quy tụ thành nhóm bạn hữu là điều thiết yếu cho việc phát triển cá nhân, và vì thế cho thừa tác vụ và cho linh mục… Nhận thức mối tương quan thiết yếu giữa tình bạn, sự phát triển cá nhân và thừa tác vụ, nên điều quan trọng là tạo nên một môi trường, trong đó người linh mục cảm thấy tự do kết bạn với nhiều người, giáo sĩ và giáo dân.”[5] Hãy lưu ý các từ đanh thép như “thiết yếu” và “quan trọng.” Những điều này tuy được đề cập trong bối cảnh của đời sống linh mục, song chúng ta không có lý do gì để nghĩ cách khác về đời sống tu trì.

Tình bạn cần có những kỹ năng đơn giản mà chúng ta đã nói: đó là khả năng và thiện chí muốn lắng nghe; thiện chí muốn tỏ lộ bản thân và mời gọi người khác biểu lộ bản thân họ; “có mặt ở đó” vì người khác; để cho người khác chăm sóc cho bạn, “giữ quan hệ” qua việc thỉnh thoảng gọi điện thoại, viết thơ hay thăm viếng. Các tu sĩ phàn nàn về sự cô đơn nên tự hỏi liệu họ có muốn thực tập những kỹ năng này không.

Một câu hỏi có thể đặt ra: người tu sĩ hy vọng sẽ tìm thấy tình bạn ở đâu? Có lần tôi đã nghe xơ Maureen McCann đưa ra một câu trả lời sâu sắc, một cách nào đó qua những hàng chữ này: Chúng ta có thể phí quá nhiều thời giờ mơ tưởng một mối quan hệ độc nhất, thân thiết và sâu đậm mà chúng ta nghĩ là mình phải có và bỏ lỡ mọi cơ hội để thiết lập những tương quan tốt ngay trước mắt chúng ta.  Bà nói, ngay bây giờ chúng ta có thể nghĩ rằng hai mươi hay hai mươi lăm người đang quan tâm đến chúng ta và chúng ta có thể kêu gọi nếu chúng ta cần họ. Ngay đây có sẵn một nhóm mà chúng ta có thể kết giao tình bạn như lòng mong ước.

Kỹ Năng Vạch Ra Ranh Giới

Trong những năm gần đây, chúng ta đã loại bỏ cách huấn luyện đời sống độc thân cũ kỹ. Cách huấn luyện đó yêu cầu chúng ta phải xa lánh những người khác, sợ rằng  họ sẽ trở nên mối de doạ đối với lời khấn. Phản ứng lại cách huấn luyện đó, chúng ta chủ trương một sự tự do và tự phát nhiều hơn trong các tương quan của chúng ta, đôi khi đến mức lãng quên những phương thế bảo vệ theo lẽ thường, và hiện nay chúng ta tự hỏi phải chăng chúng ta đã đi quá xa theo chiều hướng đó.  Nhiều tu sĩ bị cuốn theo những mối quan hệ đậm cảm xúc và tính dục, cuối cùng đã từ bỏ lời cam kết tuân giữ các khuyên phúc âm. Những người khác thì còn ở lại trong  đời tu, nhưng vẫn tiếp tục quan hệ tính dục. Ngoài ra, còn có những người bị lên án cách công khai vì hành vi lạm dụng tính dục. Hình như chúng ta đã đánh mất một số những ràng buộc mà lời khấn khiết tịnh nhất thiết đòi hỏi.

Bởi thế chúng ta đang hướng tới một nhận thức mới về kỷ luật, nhằm vạch ra các ranh giới và giới hạn trong tương quan với những người khác. Đây không phải là một sự quay lại với mô hình cũ với việc phủ nhận các cảm xúc hay lẫn tránh mọi hình thức thân mật. Đúng hơn, kỹ năng này là việc thực hành điều các nhà tâm lý gọi là “kìm nén.” Điều đó có nghĩa là, trong khi tôi chấp nhận các cảm xúc tính dục và lãng mạn của tôi, tôi tự do quyết định không khuyến khích hay bày tỏ chúng ra ngoài. William Kraft gọi đó là tiếng Không nhằm củng cố tiếng Có. Ví dụ, tôi nhận thức mình đang muốn tán tỉnh một cô thụ vấn quyến rũ, nhưng tôi chọn cách thức hành động ưu tiên cho lời cam kết của tôi:  đó là lời khấn của tôi và mục đích của tôi là giúp cho cô trở thành người tự do và lành mạnh, là dẫn cô đến với Thiên chúa hơn là đến với tôi. Hiểu như thế thì hình thức kìm nén này đang được mọi hạng người thực hiện mỗi ngày: bác sĩ, nhà tư vấn, ý tá, những người đã có gia đình nơi làm việc.

Những điều sau đây, tuy được các tác giả của một tài liệu khác bàn về đời sống linh mục, nhưng cũng có thể áp dụng cho đời sống thánh hiến: “Các tương quan của người độc thân không bao giờ trở thành việc tán tỉnh, và không cho phép người đó biểu lộ tính dục trên bình diện sinh lý.  Kỷ luật bản thân là điều tuyệt đối cần thiết…. Người linh mục mong muốn trở nên anh em của mọi người, chứ không trở nên hôn phu của bất cứ ai.”[6] Hơn thế nữa, kỹ năng thiết đặt ranh giới cũng bao gồm các giới hạn về thời gian và năng lực mà chúng ta dành cho các mối tương quan. Các ưu tiên số một của chúng ta luôn luôn là đời sống cầu nguyện, thừa tác vụ và cộng đoàn.

Kỹ Năng Truyền Sinh

Raymond Carey không đưa kỹ năng này vào danh sách của ông, ông chỉ đề cập đến “các kỹ năng sống quảng đại.” Tôi thích khái niệm Truyền Sinh (generativity) của Erick Erickson, mà ông định nghĩa như “sư quan tâm nhằm củng cố và hướng dẫn thế hệ mai sau.” Hình thức tự nhiên và thông thường biểu lộ mối quan tâm này là bậc sống làm cha mẹ. Nhưng Erickson lưu ý rằng việc truyền sinh có thể mặc nhiều hình thức quan tâm khác. Ý niệm chính yếu là trao ban sự sống.

Tôi thấy khái niệm này hết sức phong phú. Không sinh con cái và chăm sóc cho chúng hẳn là một trong những mất mát của người độc thân. Trong tâm tư con người có một nhu cầu sâu xa muốn trao ban sự sống, tạo nên một điều gì đó sẽ tồn tại sau khi chúng ta đã qua đi. Các tu sĩ chúng ta cảm thấy mất mát khả năng đó, và chúng ta vượt qua sự tổn thất đó không chỉ bằng cách làm việc chăm chỉ. Ở tận cõi thâm sâu, chúng ta cần cảm thấy mình đang nuôi dưỡng sự sống bất kể dưới hình thức nào.

Tôi nghĩ đến hàng ngàn tu sĩ nam nữ đang cống hiến nhiều thời giờ dạy học và sau đó lại làm việc ở nhà; những người phục vụ trong các bệnh viện, nhà điều dưỡng, trại giam và quán trọ cho người vô gia cư; những người thi hành thừa tác vụ trong các giáo xứ trong tư cách là cha xứ, nhân viên mục vụ, giáo lý viên, hay các thừa tác viên thăm viếng bệnh nhân; những người hoạt động tại các vùng ngoại biên hay tại các cộng đoàn đang phát triển. Ngoài niềm tin vào Thiên Chúa, thử hỏi điều gì đang thúc đẩy họ tiếp tục khi mà công việc trở nên chán ngắt và căng thẳng? Chẳng phải là vì xác tín rằng họ đang thay đổi cuộc sống của người dân đó sao? Một cách nào đó chẳng phải là họ đang trao ban sự sống hay sao?  Chúng ta có khả năng truyền sinh mỗi khi chúng ta giúp đỡ một cá nhân hay một nhóm thoát khỏi tình trạng tiêu cực để tiến tới một tình trạng tích cực hơn: từ sự ngu dốt đến hiểu biết, từ sự thúc bách đến sự tự do, từ ước muốn trả thù đến sự tha thứ, từ sự tức giận đến lòng biết ơn, từ tình trạng lờ đờ đến sự nhiệt tâm, từ sự chán nản đến niềm hy vọng , từ thân phận nạn nhân đến việc đảm nhận cuộc sống.

Khả năng truyền sinh có lẽ là một thái độ hơn là kỹ năng, và rõ ràng là nó đòi hòi hỏi phải biểu lộ qua hành vi. Nó liên hệ đến việc không ngừng nghiên cứu hoàn cảnh đang thi hành thừa tác vụ, chăm chú lắng nghe những mối bận tâm của người dân, nỗ lực tìm tòi những triển vọng mới, phát huy những tài năng tiềm ẩn và tiềm năng của những người chúng ta đang phục vụ, thử nghiệm những sáng kiến mới và không bỏ cuộc nếu có vài sáng kiến gặp thất bại.

Những người độc thân lành mạnh mà tôi có dịp gặp gỡ thuộc loại người trên đây. Họ không phung phí năng lực qua việc phàn nàn về sự cô đơn trong cuộc sống hay về sự bất công của cuộc sống. Họ đầu tư năng lực vào việc xây dựng nước Thiên chúa, bằng cách trao ban sự sống cho người khác, và nhờ đó họ cảm thấy sinh động. Họ làm việc chăm chỉ, nhưng không cảm thấy cực nhọc hay “bị đày ải.” Đó là một công việc của tình yêu, được tình yêu bao phủ và làm cho sinh động. Đấy là khả năng truyền sinh.

Tập chú vào những kỹ năng liên hệ đến tác phong trong đời sống độc thân nhắm đến ít nhất hai mục tiêu hữu ích: Thứ nhất, các kỹ năng đó có thể cung cấp cho chúng ta một khuôn khổ để đánh giá sự trưởng thành trong bậc độc thân. Chúng sẽ thúc đẩy chúng ta vươn ra ngoài thứ ngôn ngữ cao thượng mà chúng ta thường dùng để nói về đời sống độc thân và yêu cầu chúng ta đối diện với những tác phong hiện có trong việc thực thi điều chúng ta tuyên khấn. Nói cách khác, những kỹ năng đó có thể là một cấu trúc giúp chúng ta xét  mình. Thứ hai, khuôn khổ này có thể hữu ích cho các nhà linh hướng trong việc thẩm định  khả năng sống lơi khấn khiết tịnh một cách lành mạnh và mang lại sự sống của các ứng sinh. Chứng tá của đời sống độc thân thánh hiến rất quan trọng cho cả giáo hội lẫn xã hội, nên nó phải được thể hiện bằng một sự cam kết toàn tâm toàn ý.

 Martin Pable, “Skills  Needed For Celibacy,” Review For Religious (May-June 1988): 275-285. Anton Nguyễn Ngọc Kinh dịch.

ofmvn.org

 

[1] Martin Pable, “Skills  Needed For Celibacy,” Review For Religious (May-June 1988): 275-285. Anton Nguyễn Ngọc Kinh dịch.

[2] George Aschenbrenner, “Xét mình,” Review for Religious 31, số 1 (tháng 1-2 , 1972)

[3] Xem Review For Religious 41, số 5 (Tháng 9-10, năm 1982).

[4] Johannes Metz, Môn Đệ Đức Ki-tô, tr. 61.

[5] Uỷ ban Giám mục Hoa kỳ về đời sống linh mục  và thừa tác vụ, Như Một Người Phục Vụ, tr. 65.

[6] Canh Tân Đời Sống Thiêng Liêng Của các Linh Mục Hoa Kỳ, tr. 73.

Nguồn: http://giaoxuxuantinh.com