A. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

  1. Cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối

Trong một thời gian khá lâu, đất nước Việt Nam sống trong thời kỳ bao cấp, một thời kỳ tạo nên những cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối. Điều này mới nghe thì thấy khó hiểu. Tại sao đời sống tu lại chịu ảnh hưởng của đời sống xã hội tràn vào? Nhưng chúng ta cũng phải biết trong những hoàn cảnh khó khăn, nguyên sự hiện diện và tồn tại được cũng là quý lắm rồi. Từ bối cảnh đó chúng ta hiểu là anh chị em tu sĩ nam nữ phải xoay sở, đôi khi phải khai gian nếu không thì bị loại trừ.

Đời sống cơ cực, các sinh hoạt thì bị o ép, ai cũng nói theo ý cấp trên. Nó tạo nên sự huỷ hoại các giá trị chân chính của bản chất con người: đơn sơ, chân thật. Đó là một sự tan rã các giá trị tinh thần.

– Tính cách đoàn lũ khiến cho người ta không có thói quen có suy nghĩ riêng và không ai có can đảm nói lên cảm nghĩ riêng của mình, chỉ cần một vị lãnh đạo nói một điều gì tất cả xã hội đều rợp ràng ca tụng.

– Tính cách hình thức chẳng hạn sinh hoạt quốc hội, người ta chỉ việc giơ tay nhất trí những gì đã được trên đưa xuống, những công tác xã hội chủ nghĩa nặng hình thức, những lối báo cáo thành tích ghê gớm mà thực chất không có bao nhiêu.

– Tính cách gian dối chẳng hạn tình trạng báo cáo láo, kiểu làm ăn lời giả lỗ thật của các xí nghiệp quốc doanh.

Những điều đó không khỏi không ảnh hưởng đến nhân cách của tu sĩ, xét như những con người sống trong xã hội.

  1.  Những vấp váp trong thời kinh tế thị trường

Sự hụt hẫng trong khi bước vào đổi mới về cung cách quản lý vì chưa thấm được những luật chơi của nền kinh tế thị trường, chẳng hạn sự liêm chính, ý thức chung, tinh thần tự chủ, khả năng sáng tạo. Có người nói hai đứa con của thời bao cấp tạo nên: đạo đức giả, và thói vô trách nhiệm. Ngược lại thời kinh tế thị trường lại mang tính cách một thứ “tư bản hoang dã” và sản sinh ra hai đứa con là: nóng vội kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ.

Thái độ thực dụng là con đẻ của nền kinh tế thị trường, bởi vì trong xã hội ấy, dần dần người ta rơi vào cám dỗ dễ dãi: đặt hết tầm quan trọng của cuộc đời vào những phương tiện, những dịch vụ. Chẳng hạn: khi đi học, họ thấy cần xe, cần quần áo… mà không hề quan tâm đến tinh thần học hỏi của mình.

Rồi qua lăng kính của kinh tế, người ta cũng dễ dàng đánh giá con người dựa vào của cải tài năng. Khi thời bao cấp đã hết, nhà trường cho phép các dòng tu được mở các trường mầm non. Đa số các cộng đoàn đều có các nhóm trẻ, các trường mầm non. Càng ngày, vì nhu cầu đáp ứng cho việc dào tạo mẫu giáo, những nhà cao tầng đã mọc lên. Những biến chuyển này cũng làm cho các sinh hoạt cũng như trong các môi trường đào tạo để giải quyết vấn đề nhân sự và đầu tư cho giáo dục mầm non. Điều đó rất tốt vừa hợp với sứ vụ giáo dục vừa có điều kiện để nuôi sống cộng đoàn. Như thế, trong thực chất không có gì làm cho chúng ta băn khoăn, tuy nhiên do những biến thái của nó làm cho chúng ta suy nghĩ. Người ta đánh giá các hoạt động các dòng tu qua các cơ sở. Đời tu không còn có giá trị ngôn sứ. Hay đúng hơn là ngôn sứ giả. Ngày nay, người ta cũng nói đến đời sống nghèo, đời sống khiêm tốn. Tuy nhiên, đó chỉ là trên lời nói còn thực tế lại khác xa.

B. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI VÀO ĐỜI SỐNG TU TRÌ

Trong một thời gian dài Giáo Hội bị cắt đứt những liên hệ với thế giới Kitô giáo. Những tương tác về tinh thần, về não trạng, về tâm thức sống đạo, về tâm thức đời tu chưa bắt nhịp với thế giới bên ngoài và chúng ta cảm thấy hụt hẫng khi phải giao tiếp với nền tu đức mới. Giáo Hội Việt Nam cũng như hầu hết các tôn giáo khác, có lẽ đã chia sẽ những khó khăn chung của đất nước. Giáo Hội đã vượt qua nhiều thử thách một cách khá anh hùng. Tuy nhiên những vết sẹo do cuộc chiến ấy cũng để lại những vết thương và mầm bệnh sâu xa trong cơ thể. Ảnh hưởng của xã hội cũng phần nào ảnh hưởng trên nếp nghĩ và cách sống.

IMG_7521 copy

  1. Đời sống trưởng giả

Các tu sĩ và linh mục đua nhau sắp sửa những đồ dùng từ xe cộ nhà cửa… người tu sĩ trẻ chỉ còn biết đánh giá nhau bằng việc học, bằng những cố gắng để thăng tiến về phương diện xã hội.

  1. Sự tách biệt giữa đời sống đạo và sinh hoạt hằng ngày

Giáo Hội không khám phá ra nhu cầu Thiên Chúa của con người hôm nay. Giáo Hội không có khâu tiếp thị, nên chỉ có những thức ăn đồng loạt nấu sẵn… Hơn nữa lời giảng của những linh mục có khuynh hướng lôi kéo ra khỏi cuộc sống của họ, dựa trên nếp sống linh mục, tạo nên một cuộc cạnh tranh giữa sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt trần thế.Bài giảng của linh mục chỉ là những sáo ngữ, những điều mà người nói đã học được, đã cố suy nghĩ để có cái mà nói, những tự thâm tâm cũng không biết rằng người ta có thể sống được với điều ấy không, hoặc chính người nói cũng chẳng bao giờ cố gắng một chút để sống điều mình nói…

C. NGUY CƠ TỤT HẬU TRONG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI TU 

  1. Chúng ta có thể nhận thấy một số biểu hiện có sự tụt hậu về nhân cách:

– Càng tu càng trở nên “khờ người” ra: người tu sĩ được đào tạo trong bầu khí “được quyết định thay” về nhiều chuyện, nên ít có khả năng tự quyết đoán và tự chọn thái độ của chính mình.

– Thiếu sáng kiến: trong đời sống tu người trẻ dù đã lớn tuổi họ đã có bằng cấp cao vẫn trở thành người còn quá non nớt trong lãnh vực tu trì, khiến cho các bạn trong thời gian thụ huấn thường không phát huy được năng lực của mình.

– Thiếu trưởng thành: một người trẻ ngoài đời đang học đại học, có khả năng chọn lựa nếp sinh hoạt của mình (nên xem tivi những chương trình nào, nên đi chơi những dịp nào…). Trong khi ở nhà Dòng các bạn đó lại thường được cái vị hữu trách, được nếp sống kỷ luật quyết định thay. Dần dần bạn không còn khả năng chọn lựa một cách trưởng thành nữa: khi được phép thì xem tivi cho hết chương trình, khi có thể thì trốn lễ.

– Ít khả năng phấn đấu: trong các nhà Dòng lớn, các thụ huấn sinh được bao cấp đến hết mọi chuyện. Khi không có được nhiều quyền tự do, người ta cũng không thấy được trách nhiệm và giới hạn của mình và luôn đổ lỗi cho cơ cấu, cho hoàn cảnh. Đồng thời cũng thường đòi hỏi yêu sách… Những điều đó làm cho người thụ huấn càng ngày càng giảm khả năng phấn đấu.

– Khuôn phép trong nếp sống, xơ cứng trong quan điểm: đời sống tu trì từ bao đời nay được hiểu như là một nếp sống khuôn phép. Nếp sống đều đặn, giờ giấc kỷ luật, làm cho người ta rất lúng túng trong một môi trường tự do và phải quyết định chương trình sống cho mình. Họ không dám quyết định và ít can đảm nhận trách nhiệm của mình.

– Nếp sống “tiểu kỷ”chính là cái tôi bé nhỏ, cam chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ ân huệ, vun quén, xà xẻo, khôn khéo lẩn tránh, não trạng khép kín, luồn cúi, khúm núm, an phận, phụ thuộc, manh mún, tiểu xảo, rình được một cơ hội nào đó thuận tiện thì tìm cách xoay xở, vun quén chút ít cho cái tôi nhỏ bé.

Nếp sống tu trì chỉ dựa vào một khuôn khổ, từ chuyện kinh nguyện cho đến việc học hỏi và công tác tông đồ. Giờ giấc kinh hạt được coi là tiêu chuẩn để đánh giá khiến cho người tu ít khi tự nguyện, tự do và sáng tạo để tìm cho mình một cách thức sống tâm linh.

Tất cả những thứ vỏ cứng như thế chỉ tạo nên một thói quen hơn là một giá trị tinh thần. Khi những thói quen ấy bị phá vỡ, một lỗ hổng của nhân cách sẽ lộ ra.

D. CÁC TU SĨ TRẺ HÔM NAY

Những nhận định này không phải muốn “vơ đũa cả nắm” nhưng chỉ nêu ra mấy điểm nổi bật mà thôi.

  1. Thực trạng thực dụng

Do ảnh hưởng nền kinh tế thị trường với hiệu quả được xem là thước đo mọi giá trị, nên người trẻ hôm nay lại sống rất thực tế, xét cho cùng, thì thực tế là tốt, vì sẽ mang lại hiệu quả cao, nhưng thực tế quá dễ rơi vào não trạng thực dụng. Thực dụng là lựa chọn cái gì có lợi trước mắt. Đối với  con người hiện đại cái lợi trước mắt là tiền bạc, danh vọng, quyền lực, người ta tìm kiếm những giá trị đó thay vì tìm kiếm cuộc sống có đạo đức cao. Đối với tu sĩ có khuynh hướng thực dụng thì điều họ tìm kiếm bằng cấp, đời sống tiện nghi, cuộc sống an toàn, ổn định, uy tính, ảnh hưởng, tư lợi… thay vì tập luyện những nhân đức khó nghèo, khiêm tốn, công bằng, bác ái.

Để giảm bớt não trạng thực dụng, cần khơi gợi nơi người trẻ lòng nhân ái, và đi đến với người nghèo để chia sẻ với họ.

  1. Khuynh hướng tự do

Ngày nay, theo nhịp tiến của thời đại, tinh thần dân chỉ thấm nhập mọi lãnh vực, người ta coi trọng khả năng, ý kiến cá nhân, cụm từ “tự khẳng định mình” được thường xuyên sử dụng. Tự do là một giá trị cao quý, nó làm nên phẩm giá con người nhờ đó các bạn trẻ cởi mở, tự tin, phát huy sáng kiến. Nhưng nếu không hiểu cho đúng, tự do sẽ thành phóng túng hỗn loạn.

Người trẻ khó chấp nhận một thứ đạo đức gò bó nặng về cấm kỵ, khó chấp nhận nề nếp tu trì truyền thống. Họ muốn sống đạo đức, sống đời thánh hiến theo cách mà họ thích và lựa chọn. Những gì phù hợp với mình  thì mình chập nhận, không phù hợp thì từ chối. Nếu bị buộc phải theo thì chấp nhận cách miễn cưỡng “chịu vậy” chứ không phải là phục vụ.

Để có thể giúp tu sĩ trẻ chấp nhận một quy định, một đòi hỏi, trước hết cần kiên trì giải thích, thay vì ra lệnh, áp đặt từ trên xuống. Tuy có khuynh hướng tự do, nhưng không phải là các bạn trẻ không biết lắng nghe cách chân thành. Ở đây cần giúp các bạn phân biệt được một điều khuyên và một điều đòi hỏi; phân biệt giữa cái mình thích và cái mình cần yêu mến.

  1. Thích phê phán

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trào lưu dân chủ, óc phê bình cũng sẽ mạnh hơn. Các bạn trẻ thích phê phán. Có những phê phán đúng và cũng có những phê phán không đúng. Có những phê phán để làm rõ chân lý và cũng có những phê phán chỉ nhằm bôi nhọ người khác. Có những phê phán công khai, nhưng đa phần là những phê phán sau lưng và khi đến tai người bị phê phán thì đã phải tam sao thất bổn! Điều đáng nói là khi trình độ văn hoá còn hạn chế hoặc do chưa đủ chín chắn, thói quen phê phán dễ ngã sang hướng tiêu cực, vừa bới móc, thích đưa mình lên và hạ kẻ khác xuống. Lắm khi lời phê phán gây tổn thương sâu xa cho người khác đặc biệt là nơi những ai có tâm hồn nhạy cảm.

Để giúp bạn trẻ có tinh thần khiêm tốn đòi mình sống khiêm tốn hơn và yêu thương các chị em, nhắc nhở các chị em biết tôn trọng chân lý và tôn trọng người khác nhất là khi vắng mặt.

Thay lời kết: Mong ước nơi các chị em trẻ

– Mong các chị em nhận ra ơn gọi của mình để tự ý đáp trả và cam kết dấn thân. Để từ đó các chị em có thêm nghị lực vượt qua những thử thách trong đời tu và đứng vững trong ơn gọi của mình.

– Mong các chị em biết nhận ra lỗi của mình để sửa và cố gắng sửa để hoàn thiện mình hơn. Và ngày một thêm tin tưởng, can đảm hơn: sai không sợ, bại không nản nhưng chỉ lo người không có chí vượt lên chính mình mà thôi.

– Mong các chị em trở thành những người hữu ích cho Giáo Hội và cộng đoàn. Trở thành người dễ răn, dễ dạy, sống hòa đồng vui vẻ…

– Mong các chị em trở thành những thành viên chín chắn đi đúng với đường lối của Dòng, để các chị em là những người kế tiếp xây dựng Hội Dòng ngày càng vững chắc hơn.

– Mong cho các chị em phát huy hết khả năng, năng khiếu của các chị em để phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân.

– Mong các chị em luôn có khả năng làm chủ bản thân mình, biết phân định trước mọi vấn đề, và biết chịu trách nhiệm về những hành động của mình.

– Mong các chị em sống thành thật, tiết độ, công bằng, khôn ngoan, luôn biết cách tự chế để làm chủ được chính mình, và thắng được bản năng tự nhiên của mình. Biết tự chế trong việc nhỏ và tầm thường, thì mới chấp nhận được những đòi hỏi trong đời sống cộng đoàn và đời tu.

– Mong các chị em luôn coi Hội Dòng như là mái ấm Gia đình của mình, để khi đi thì nhớ, khi ở thì thương.

– Mong các chị em biết vâng lời trong đối thoại, tin tưởng với tinh thần khiêm tốn. Biết cảm thông, tha thứ, kính trọng và yêu thương.

– Mong các chị em khi muốn trách móc Bề Trên, thì hãy đặt mình vào cương vị Bề Trên

 

Lm. Đa Minh Đinh Viết Tiên

Nguồn: gpcantho.com

Cuộc đời như tấm gương soi, qua đó ta có thể nhận ra chính mình. Trước tiên, nó phản ảnh Cái Tâm của ta: Kẻ bi quan thấy đời đáng buồn... Người lạc quan thấy đời sao vui thế!

Thứ đến, nó phản ảnh cách ta Cư Xử:  Kẻ trao nụ cười sẽ nhận lại những nụ cười. Ai chỉ than thở sẽ thấy toàn những tiếng thở than... Kẻ ích kỷ suốt đời lầm lũi cô đơn... Người vị tha có nhiều người thương mến... Người dễ thương là người dễ dàng thương người khác và ai muốn thương họ cũng dễ... Kẻ khó thương là người chẳng muốn thương ai, nên cũng khó có ai có thể yêu thương họ.

Chúng ta nên thận trọng: Cần Lắng Nghe dư luận phản ảnh về mình... Nhưng đừng quá lệ thuộc vào dư luận! Phải quan tâm đến dư luận vì thường “không có lửa làm sao có khói”? Nhưng đừng quên: Đâu chỉ có gương phẳng, mà còn có gương lồi, gương lõm… “Dư luận vốn vẫn thường.. luận dư” mà! Điều quan trọng là chúng ta phải Tự Biết mình là ai, thế nào, tốt hay xấu, và thực chất chúng ta ra sao...

Gương soi tốt nhất là chính Tâm Hồn chúng ta. Hãy soi lòng để biết chính mình: “Tôi đáng khen hay đáng chê”?:

  • Nghe lời khen hão rồi lúc nào cũng tự khoe mình - đó là Tự Kiêu.
  • Nghe lời chê bai, rồi khép kín không dám bộc lộ hay làm gì cả - đó là Tự Ty.
  • Nghĩ mình hơn những người chung quanh, đến nỗi chẳng coi ai ra gì - đó là Tự Tôn.
  • Nghĩ mình hoàn chỉnh, không cần phải cố gắng hay phấn đấu chi nữa - đó là Tự Phụ.
  • Làm việc không vì lời khen chê, mà chỉ để không thẹn với lòng mình - đó là Tự Trọng. 

Tự kiêu, tự ti, tự tôn, tự phụ hẳn nhiên là không nên rồi! Nhưng lòng tự trọng cần phải phát huy:

  • Người không tự trọng thì cũng khó mà tôn trọng người khác.
  • Người Tự Trọng ý thức về mọi hành vi của chính mình: biết giới hạn và ưu điểm, biết thất bại và thành công, biết rút ra kinh nghiệm từ quá khứ của mình.
  • Người tự trọng không làm điều xấu ác, vì không muốn tự bôi nhọ bản thân.
  • Người tự trọng thực hiện điều tốt cốt không vì được tiếng khen, mà chỉ vì nghe theo tiếng gọi sâu thẳm trong lòng luôn hướng về điều lương thiện.
  • Người tự trọng soi gương cuộc đời để nhận biết khuyết điểm cần sửa đổi và hoàn thiện tư cách. 

Con người hay hoặc dở không phải vì ảnh trong gương đẹp hay xấu, mà do họ SUY NGHĨ & HÀNH ĐỘNG như thế nào.

Trích trong tập sách: NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT

Lm Micae - Phaolo Trần Minh Huy, ssp

Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên thần Hộ thủ để đồng hành với chúng ta, cho lời khuyên và bảo vệ, một thiên thần mà chúng ta nên lắng nghe với sự hiền lành và tôn trọng. Đây là lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thánh lễ ban sáng ngày thứ sáu, 02-10, lễ kính Thiên thần Hộ thủ, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.

Lấy ý từ lễ kính các Thiên thần Hộ thủ, bài giảng của Đức Giáo hoàng suy niệm về sự hiên diện thiêng liêng này trong đời sống chúng ta, ngài mô tả các thiên thần là đại sứ Chúa gởi đến đồng hành với mỗi một người chúng ta. Ngài lưu ý rằng, bằng chứng cho điều này được mô tả trong biến cố Thiên Chúa đuổi Ađam ra khỏi vườn Địa đàng. Ngài không để Ađam đơn độc tự thân vận động, hay bảo là  ‘gắng hết sức mà tự lo cho mình đi.’  Nhưng, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh rằng, mỗi một người đều được Chúa ban cho một Thiên thần Hộ thủ ở bên cạnh mình.

Đại sứ của Chúa bên cạnh chúng ta

‘Ngài luôn luôn ở với chúng ta!  Và thực tế là vậy.  Như có một đại sứ của Chúa ở với chúng ta.  Và Chúa khuyên chúng ta rằng: ‘Hãy tôn trọng sự hiện diện của thiên thần hộ thủ!’ Và ví dụ như, khi chúng ta, phạm một tội và tin rằng chúng ta phải đơn độc mà tự liệu cho mình: Nhưng không, ngài có ở đó. Hãy biết tôn trọng sự hiện diện của ngài. Lắng nghe tiếng thiên thần, bởi ngài cho chúng ta lời khuyên. Khi chúng ta nghe lời linh hứng: ‘Nhưng hãy làm thế này … thế này tốt hơn … đừng làm việc đó.’ Hãy lắng nghe. Đừng chống đối ngài.

Thiên thần hộ thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt là khỏi sự dữ. Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể giấu diếm nhiều thứ, những sự xấu xa, nhưng đến cuối cùng luôn được phơi bày ra ánh sáng. Thiên thần hộ thủ ở đó để cố vấn cho chúng ta  và ‘che chắn cho chúng ta’ như một người bạn. Một người bạn mà chúng ta không thấy nhưng nghe được.  Một người bạn đến một ngày sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui bất diệt của Thiên đàng.’

Tôn trọng và lắng nghe thiên thần hộ thủ

Đức Phanxicô tiếp lời, ‘Tất cả những gì ngài muốn là chúng ta hãy lắng nghe và tôn trọng ngài. Tất cả chỉ là: tôn trọng và lắng nghe.  Và sự tôn trọng cùng lắng nghe người bạn đồng hành này, chính là sự hiền lành. Người Kitô hữu phải hiền lành, khi đối diện với Thần Khí Chúa. Hiền lành với Thần Khí mở đầu bằng sự nhún nhường trước lời khuyên của người bạn đồng hành trên đường đời của chúng ta.

Và để hiền lành, chúng ta cần phải trở nên nhỏ bé như trẻ nhỏ, và thiên thần hộ thủ của chúng ta là một người đồng hành dạy chúng ta sự khiêm nhượng này, và chúng ta nên lắng nghe ngài với lòng khiêm nhượng như đứa trẻ.

Chúng ta cùng nguyện xin Chúa ơn hiền lành này, ơn biết lắng nghe tiếng của người bạn đồng hành thiêng liêng, tiếng của đại sứ Chúa sai đến đi cùng chúng ta và nâng đỡ chúng ta.  Chúng ta phải luôn luôn tiến tới trên đường. Và trong thánh lễ này, khi chúng ta tôn vinh Chúa, hãy nhớ lại Chúa tốt lành biết bao, Đấng ngay sau khi chúng ta đánh mất tình thân với Ngài, đã không để chúng ta một mình, không bỏ rơi chúng ta.’

Domenico_Fetti_-_The_Guardian_Angel_Protecting_a_Child_from_the_Empire_of_the_Demon_-_WGA7849

J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio Eng

Nguồn: http://phanxico.vn

 

Sự dữ đi ngang qua những túi tiềnĐây là một đoạn trích trong bài "CHÚA THÁNH THẦN, TÁC GIẢ CỦA SỰ ĐA DẠNG VÀ LÀ NHÀ KIẾN TẠO HIỆP NHẤT" Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ đại diện các Dòng tu tại Đại hội Công Nghị Quốc Tế  ngày 4-5-2018. 

Nhận thấy rất ý nghĩa để mỗi người tu sĩ cần đọc và suy gẫm để sống trong đời sống dâng hiến của mình và để xây dựng Hội Dòng theo con đường nghèo khó của Chúa Giesu

.....

2. Chữ “P” thứ hai, đó là sự “Khó Nghèo - Poverty”.

Trong Hiến Pháp, Thánh Ignatio, Dòng Tên, đã viết như thế này, “Nghèo khó là người mẹ, là tường bao bọc đời sống thánh hiến” - xem ra bản gốc không phải của ngài, tôi nghĩ ngài trích câu này đâu đó từ các Giáo Phụ Sa Mạc. Nghèo khó là “mẹ” - thật lý thú. Thánh Ignatio không nói người mẹ đó là đức trinh khiết vốn liên quan đến thiên chức làm cha, thiên chức làm mẹ. Không, ngài nói nghèo khó là mẹ. Không có đức nghèo khó, đời sống thánh hiến không đơm hoa kết trái. Hẳn chắc, nghèo khó là tường luỹ, là vật che chắn bảo vệ chúng ta khỏi lây nhiễm tinh thần thế tục.

Ai trong chúng ta cũng biết, sự dữ đi vào lòng người ngang qua những túi tiền. Những cám dỗ cỏn con lỗi đức khó nghèo là thương tích của các thành viên trong thân mình cộng đoàn thánh hiến. Lời khấn khó nghèo tuân theo Quy Luật, theo Hiến Pháp của mỗi Hội Dòng không giống nhau. Quy Luật dạy, “Luật chúng ta không cho phép điều này; luật dòng không ban phép điều kia”, nhưng luôn luôn có một điểm chung là tinh thần nghèo khó và chúng ta không cần bàn cãi điều này. Không có đức khó nghèo, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng phân định đúng đắn những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay.

“Hãy từ bỏ mọi sự, đến với người nghèo!”, Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên như thế và người thanh niên đó là tất cả chúng ta. “Nhưng thưa Đức Thánh Cha, không, con có của cải gì đâu?” Phải, nhưng con có một cái gì đó, một vài dính bén nào đó. Chúa Giêsu yêu cầu điều này và đó là cậu nhóc Isaac mà con phải hiến tế; một linh hồn trần trụi, một linh hồn khó nghèo. Với tinh thần nghèo khó này, Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta, Người phòng ngự giúp chúng ta tránh khỏi bao vấn đề và vô vàn cạm bẫy khác vốn đang chực huỷ hoại đời sống thánh hiến.

Có ba bước khi khởi đi từ đời sống thánh hiến tu trì sang tục hoá bậc tu trì. Phải, ngay nơi các Tu sĩ. Phải nhìn nhận đang có một sự tục hoá Tu sĩ, nhiều nam nữ Tu sĩ và nhiều người sống đời thánh hiến giờ đây trở nên quá thế gian. Hãy xét đến ba bước: bước thứ nhất, tiền, lỗi đức khó nghèo; bước thứ hai, vênh vang, từ việc gắng sức khoe mẽ như một con công đến những vênh vang vụn vặt; và bước thứ ba, kiêu ngạo, tự phụ… Rồi từ đó, bao nhiêu điều xấu xa kéo theo.

Bước thứ nhất chính là sự ràng buộc với của cải, dính bén tiền bạc. Nếu chúng ta cảnh giác điều này, những điều khác sẽ không đến. Và tôi nói, của cải, không chỉ tiền bạc nhưng là sự quyến luyến vật chất. Để có khả năng phân định những gì đang xảy ra, phải có tinh thần khó nghèo. Và đây, một số câu hỏi để chúng ta xét mình:

Tôi sống khó nghèo làm sao? Hãy nhìn vào những ngăn kéo của các linh hồn. Hãy nhìn vào mỗi cá nhân, nhìn vào Hội Dòng… Chúng ta đang sống nhân đức nghèo khó thế nào?

Đó là bước thứ nhất, nếu chúng ta bảo vệ nhân đức này, những điều khác sẽ cao chạy bay xa. Khó nghèo là tường luỹ bảo vệ chúng ta khỏi bao điều khác. Khó nghèo là bà mẹ giữ cho chúng ta nên người tu trì hơn, dạy chúng ta biết đặt mọi của cải mình có nơi Thiên Chúa. Khó nghèo là tường chở che chúng ta khỏi sự tục hoá ngày càng phát triển vốn đang đe doạ nghiêm trọng bất cứ Tu sĩ nào trong thời buổi hôm nay.

.....

 

    JIM FAIR
Người dịch: Lm. Minh Anh, Gp. Huế
 
...Tính cách tiên tri của người tu sĩ trong thế giới
Tại sao tôi phải theo lý tưởng sống khó nghèo trong khi ngày nay mọi người hầu như đang chạy theo một thứ chủ nghĩa duy vật chất, thèm khát chiếm hữu, vô cảm trước những nhu cầu và nỗi khổ của người khác, dửng dưng với việc phải biết tiết chế sử dụng những tài nguyên thiên nhiên? Nhiều người không ý thức tài nguyên của hành tinh có giới hạn, cần được tôn trọng và bảo vệ công trình tạo dựng bằng cách giảm bớt tiêu thụ, biết sống thanh đạm và tự kềm hãm những ước muốn của mình. Câu trả lời của người bước theo Đức Kitô sống đời thánh hiến, qua việc sống khó nghèo theo Phúc âm, mang nhiều hình thức khác nhau, làm chứng cách mới mẻ và mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ, bằng một nếp sống huynh đệ, đơn sơ và hiếu khách, làm gương cho những người dửng dưng với nhu cầu của tha nhân; và thường kèm theo hoạt động dấn thân phát huy tình liên đới và bác ái.

1. Nguồn cội của đức nghèo khó Kitô giáo
 
Nghèo khó: từ thân phận của con người đến thờ lạy Thiên Chúa
 
Nghèo khó là một hoàn cảnh sống của con người, bởi vì con người là một thụ tạo giới hạn, mỏng manh, bấp bênh, luôn có nhu cầu phải thỏa mãn và cái chết không thể tránh thoát được. Con người là loài phải chết, điều đó cũng đủ để nói lên tình cảnh nghèo hèn cùng cực của con người. Chúng ta chào đời trần trụi tay không, được ủy thác cho người khác dưỡng nuôi chăm sóc, và chúng ta chết cô độc, điều ấy bộc lộ tất cả thân phận khốn khổ, bất toàn của ta. Số phận con người là số phận của loài thụ tạo giới hạn, không tự mình có đầy đủ mọi sự và độc lập được, và chính vì thế ta được kêu gọi sống phụ thuộc lẫn nhau (tương thuộc), chia sẻ cho nhau, liên đới với nhau, điều đó đã được ghi khắc trong trung tâm cuộc sống.

Mọi người, nam cũng như nữ, cần phải nhìn nhận, đón nhận, đảm nhận phận nghèo khó cơ bản này, mà nếu không có cái nghèo ấy người ta không thể đi suốt con đường nhân linh hóa trong quan hệ với người khác, với nhân loại, với toàn thể tạo thành, vũ trụ. Chính vì khó chấp nhận điều đó mà người ta dung túng ý định tránh né trong mơ mộng, ảo tưởng rằng có thể sống mà không cần người khác hoặc thậm chí chống lại người khác, khi đi trên hành trình của hiệp thông khó khăn và nhọc nhằn. Thế nhưng, sống chấp nhận thân phận nghèo khó bản thể của con người là một đòi hỏi cơ bản đối với mọi người, dù là Kitô hữu hay không Kitô hữu, nếu muốn trở nên người nhiều hơn, càng ngày càng là người hơn. Vì thế mà ta hiểu tại sao đức vâng phục Kitô giáo khởi đi từ sự chấp nhận thân phận thụ tạo của mình, chấp nhận chính mình và sự thật - thực tại của mình.

Và chính sự nghèo khó từ căn để này của phận người – là con người sau cùng dứt khoát phải chết, phó thác sự sống mình trong tay Tạo Hóa, Đức Chúa Cha (x. Lc 23,46; Tv 31,6) – đã đưa người tin đến chỗ thờ lạy Đức Chúa hằng sống. Hành động thờ lạy này, vốn là cao điểm của lòng tin, mục đích của niềm tin, gắn kết với Thiên Chúa, là cái gì đây? Đó là sự thú nhận cái nghèo nàn, những thiếu thốn của mình; là có thể nói với Thiên Chúa rằng: “Xin cho ý Cha được thành sự” (Mt 6,10; 26,42; x. Lc 22,42); là đứng trước nhan Thiên Chúa đối diện và nói với Ngài, trong khi nhìn nhận Ngài là nguồn cội và cùng đích của sự sống chúng ta. Có thể nói rằng ai không nghèo và không cảm thấy mình nghèo hèn không thể thờ lạy Thiên Chúa, nhưng thờ Mammon, tiền tài của cải thế gian. Đây là một trong những cám dỗ đầu tiên Chúa Giêsu chịu trong hoang địa (x. Mt 4,8-9), được vượt qua bởi những lời sau đây: “Người hãy thờ lạy Đức Chúa Thiên Chúa ngươi và chỉ thờ lạy một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10; Đnl 6,13).
 
Sự nghèo khó và người nghèo trong Cựu ước

Trong Cựu ước, nghèo được cho là túng thiếu, trong khi giàu có là dấu của bình an hiện diện, như ân sủng và phúc lành của Thiên Chúa ban xuống cho người công chính, cho tín hữu (x. Tv 34,10-11; 112,1.3). Tuy nhiên người nghèo luôn là đối tượng được Thiên Chúa bảo vệ, chăm sóc và quan tâm. Những người nghèo là hệ quả của một sự bất công xã hội nào đó, là nạn nhân của áp bức và bóc lột, bởi thế có sự hiện diện những kẻ thuộc giai cấp quyền lực và giàu có bóc lột. Người nghèo bởi thế bị tước mất phẩm giá, chính vì thế Thiên Chúa xót xa và cảm thương họ, đến độ đau khổ cùng họ (x. Xh 2,25), trở nên đấng cứu độ và báo oán cho họ (Tv 72,12-14). Trong sách Torah Thiên Chúa tỏ ý muốn của Ngài đối với xã hội Do thái: “Tuyệt nhiên giữa anh em đừng có người nghèo” (Đnl 15,4), và vì lợi ích của người nghèo, Ngài muốn các định chế lề luật gìn giữ, bảo vệ những kẻ bần cùng, như các cô nhi, góa phụ, khách ngoại kiều cư ngụ trong xứ (x. 22,20-26; 23,9; Lv 19,33-34; Đnl 10,17-19; 27,19).
 
Tuy nhiên, những người nghèo này, nạn nhân của lịch sử, cũng được coi và hiểu, đặc biệt trong lời rao giảng các tiên tri, là những người đang sống trong hoàn cảnh mong đợi, khao khát, đói khát sự công chính và khiêm hạ. Trong viễn tượng này, những người nghèo là những người không có quyền lực, không kiêu căng, tự mãn, bạo lực, và chỉ mong ngóng Thiên Chúa đến mang ơn cứu độ, đợi chờ ngày của Chúa; họ là “những người nghèo trong tâm hồn” (Mt 5,3; x. Tv 34, 19 LXX), những anawim, những người nghèo của Thiên Chúa (x. Xp 2,3) sống trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, trong hiền lành và khiêm hạ.
 
Đức Giêsu, người nghèo lý tưởng
 
Nhìn và chiêm ngắm Đức Giêsu, cả trước khi giải thích những lời lẽ và đòi hỏi của Người phải sống nghèo khó trước sự kiện Nước Thiên Chúa đến, người Kitô hữu có thể hiểu tinh thần nghèo khó theo Phúc âm. Đức Giêsu, “vốn giàu có, lại trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người” (2Cr 8,9). Chúa Con, vốn dĩ là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải nhất quyết giữ địa vị này, giữ khư khư đặc quyền của một Thiên Chúa vốn là bất tử, quyền năng, chúa tể hoàn vũ, mà lại tự hủy mình đi mặc lấy phận nô lệ của con người (x. Pl 2,7). Chúa Giêsu đã muốn sống sự nghèo khó triệt để, thực sự của thân phận phàm nhân, và đã chọn lựa như thế vì yêu thương, vì muốn liên đới với loài người chúng ta, bởi tự do của tình yêu Ba Ngôi đi ra ngoài mình (ékstasis).
 
Đức Giêsu, theo những gì các sách Phúc âm thuật lại, không thuộc giai cấp bần cùng nhất của xã hội thời Người, không là người cùng khốn và chưa bao giờ được gọi là một người khốn khổ (ptochós) về phương diện xã hội. Ngài thuộc một gia đình làm nghề thủ công, con của một bác thợ mộc (x. Mt 13,55) có khả năng với nghề nghiệp ấy bảo đảm nuôi sống gia đình ở mức sống trung bình. Chúng ta không biết gì về cuộc đời của Đức Giêsu trong những năm tháng từ thời thơ ấu cho đến khi khởi đầu sứ vụ công khai của Người. Từ các Phúc âm chúng ta có thể rút ra được rằng Người chỉ có thể đã từng đi “theo” Gioan Tẩy Giả (x. Mc 1,7; Mt 3,11; Ga 1,15.27.30), hoặc giả sống trong một cộng đoàn môn đệ của Gioan, một cộng đoàn sống nhiệm nhặt nhưng không khốn cùng, chờ đợi ngày của Chúa.

Trong thời gian hoạt động công khai rao giảng, trong bức tranh cuộc đời rong ruổi nay đây mai đó, Đức Giêsu, theo nghĩa là Người có thể trông nhờ vào một ngôi nhà nào đó mà Người lưu lại tạm thời (x. Mc 1,29.35) và hưởng nhờ sự hiếu khách từ phía các môn đệ và những người có lòng với Người, có lương thực để ăn nhà để ở (chỉ cần nghĩ tới Matta, Maria và Lazarô: x. Lc 10,38-42; Ga 12,1-2). Phúc âm thứ tư cho ta biết có một “quỹ chung” (Ga 12,6; 13,29) trong nhóm các môn đệ, có lẽ chăng đó là những gì có được do lao động đánh bắt cá. Sau cùng, Người được gọi và được người ta công nhận là một rabbi và là tiên tri, với uy tín và uy quyền đó Người còn được hay mời đến các nhà giàu sang khoản đãi ăn uống (x. Lc 5,29-32; 7,36-50; 19,1-10).
 
Thế nhưng, sự nghèo khó thật của Đức Giêsu là sự nghèo khó của một con người không có gia đình, “không có chỗ để tựa đầu” (x. 8,20; Lc 9,58), một người không chỗ tựa nương vì không thân với bất kỳ quyền lực chính trị, kinh tế và tôn giáo nào, một người đứng “ở giữa” (Lc 22,27) các anh em mình trong cộng đoàn chứ không ăn trên ngồi trước, một người hằng ngày sống cuộc sống mình vì Nước Trời và vì anh em, một người đã không thể cậy dựa vào tiền của sung túc và chia sẻ tất cả những gì mình có. Đó là sự nghèo khó đích thật của Kitô giáo, là mẫu gương cho tất cả mọi người. Nếu như có ai đó là đối tượng của mối phúc thật thứ nhất – “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) – thì đầu tiên đó phải là Đức Giêsu, người nghèo trước mặt Thiên Chúa, nghèo trong tâm hồn vì đã xua đuổi dọc suốt cuộc đời và sứ vụ của mình các cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-11; Lc 4,1-13), cám dỗ về chiếm hữu (lợi), về quyền bính và thống trị (danh và quyền).
 
Như thế, Đức Giêsu đã là một người nghèo, đúng hơn một người nghèo theo lý tưởng, không vì nghèo theo nghĩa xã hội, nhưng là cái nghèo của một ‘anaw, “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29), biết chia sẻ và hiệp thông. Như một người nghèo, Chúa Giêsu đón tiếp những người bạn nghèo, đơn sơ, bệnh tật, và Người chết như một người nghèo không ai bảo vệ: cả bằng cách đó Người đã tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa (x. Ga 1,18).
 
Giáo huấn của Chúa Giêsu về đức nghèo khó
 
Nghèo khó là yếu tố cốt yếu của người môn đệ khi đi theo Chúa Giêsu trong viễn cảnh Nước Trời đang đến gần. Trước hết Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ đón nhận và sống ưu tiên số một cho Nước Trời, quy hướng mọi sự về đó. Bởi thế, những người nghèo theo tinh thần được cho là có phúc, vì Nước Trời là của họ, họ là những người sống tình trạng mong đợi, khao khát và đón nhận Nước ấy. “Tin mừng, Phúc âm được loan báo cho những người nghèo” (x. Lc 4,18; Is 61,1), Đức Giêsu đã công bố như thế ngay từ đầu sứ vụ của Người trong hội đường Nazaret. Đức Giêsu kêu gọi, nếu muốn làm môn đệ Người, phải từ bỏ của cải, nhà cửa ruộng vườn, gia đình, khởi đầu cuộc hành trình làm môn đệ bằng sự từ bỏ, tự hủy (kenosis) nghĩa là hóa mình ra không:
 
– Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí (Lc 12,33).
 
– Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14,33).
 
– Hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo, và anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi (Lc 18,22tt).

Người đã gặp gỡ Đức Kitô và muốn đi theo Người là kẻ giống như người kia đã gặp thấy viên ngọc quý hay kho tàng ẩn giấu (x. Mt 13,44-46) và có thể bán đi tất cả, bỏ mọi sự, để đạt cho được của ấy vì yêu mến điều tốt đẹp đó quý giá nhất trên tất cả, là: Nước Trời, Tin mừng, chính Đức Kitô. Gia đình, tài sản vật chất và thậm chí mạng sống mình (x. Mt 10,37-38; Lc 14,26-27) có thể trở thành vật cản và mâu thuẫn với việc ta triệt để đi theo Chúa. Bởi thế, khi người tín hữu cảm thấy mình được kêu gọi đi theo Chúa thì họ phải làm một chọn lựa dứt khoát và triệt để. Người môn đệ chọn Chúa trên hết mọi sự, và như thế họ mới có thể bước đi theo Người, với ý thức mình đã từ bỏ hết mọi thứ “bả vinh hoa phú quí” (Mc 4,19), “thần Tiền Của” (Mt 6,24; Lc 16,13), từ bỏ sự giàu sang của ma quỷ mà đức tin đòi hỏi.
 
Nói cách khác, việc từ bỏ mọi sự Đức Giêsu thấy như là một điều kiện thiết yếu để người môn đệ đi theo Người dấn thân trọn cuộc sống mình với Người. Đó là đảm nhận một điều kiện giải thoát người môn đệ khỏi ngẫu thần và khỏi sự quyến rũ của giàu sang, một điều kiện tự hủy giúp ta khó có thể quay trở lại đàng sau nữa (x. Lc 9,62). Từ bỏ, bán hết của cải, bố thí cho người nghèo quả thật là tương đương với việc ta chặt chiếc cầu ở đàng sau lưng mình. Sự từ bỏ của cải này cũng đồng thời là việc ta chia sẻ để hiệp thông với những người nghèo. Làm phúc bố thí, thực hành từ bi bác ái, giúp đỡ và chia sẻ với những người bé mọn (x. Mt 25,31-46) là những cách thức chia sẻ để từ bỏ mình luôn nhắm tới hiệp thông (koinonia) với Đức Chúa hằng sống và với anh chị em.
 
Ngay cả lối sống của Kitô hữu cũng thể hiện sự nghèo khó về tiện nghi, phương tiện, để không cậy dựa vào chúng hơn sức mạnh của Lời Chúa. Chúng ta nhớ Chúa Giêsu đề nghị với các môn đệ những yêu sách khá khó khăn khi sai các ông đi sứ vụ (x. Mc 6,7tt.; Lc 10,1-16). Nếu quả thật Nước Thiên Chúa thuộc trước tiên những người nghèo, thì việc loan báo Nước ấy không thể phó giao cho những sứ giả giàu có cũng như cho các phương tiện giàu sang và quyền lực. Trong cách sống cũng như trong khi thi hành sứ vụ, người Kitô hữu phải luôn bộc lộ cụ thể qua những hành vi, qua lối sống, cách ăn mặc, và thể hiện bên ngoài giá trị tối thượng là Nước Thiên Chúa, rằng sứ vụ là công trình của Thiên Chúa và rằng chính Thiên Chúa sắp đến rồi, vì đã bắt đầu thời đại cuối cùng rồi và “Chúa đã gần đến” (Pl 4,5), “đã ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13,29; Mt 24,33).
 
Đức nghèo khó và cộng đoàn Kitô hữu
 
Trình thuật của sách Công vụ Tông đồ về khai sinh cộng đoàn mới các môn đệ Chúa Giêsu ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,42-47; 4,32-37) luôn là cảm hứng cho cuộc sống của Hội Thánh và của các cộng đoàn Kitô hữu. Trình thuật mô tả Hội Thánh tại Giêrusalem như thể hiện một cộng đoàn hợp thành phù hợp với ý Chúa, một cộng đoàn trong đó mọi người sống bác ái yêu thương và chia sẻ, các của cải “được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4,35), để sao cho “không ai phải thiếu thốn” (Cv 4,34). Họ siêng năng không những nghe các tông đồ giảng dạy, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng, mà còn luôn luôn hiệp thông với nhau (x. Cv 2,42), và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44), chia sẻ của cải “cho mọi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,45).
 
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn chia sẻ, trong đó không có của riêng, trong đó có một sự kết nối chặt chẽ giữa sở hữu và lao động không nhằm tư lợi nhưng nhằm đến sự hiệp thông chia sẻ. Ở đây một yếu tố quan trọng làm nên nét “dị biệt Kitô giáo” là các Kitô hữu sơ khai đã sống và làm không theo kiểu của thế gian. Chính vì thế, trong các cộng đoàn của thánh Phaolô vị Tông đồ yêu cầu “chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn” (Rm 12,13), “chia sẻ với người túng thiếu” (Ep 4,28), không phải để lại tạo ra cái nghèo khổ cho ai nhưng để có sự đồng đều hướng tới hiệp thông với Chúa và giữa anh em với nhau (x. 2Cr 8,11-15). Không phải là các Kitô hữu đã cử hành Thánh Thể, lễ bẻ bánh, vốn là hành động có ý nghĩa chia sẻ, hiệp thông trong một Thân Thể duy nhất, là Thân Mình của Đức Kitô hay sao? Nếu các Kitô hữu mà không chia sẻ với nhau các của cải lương thực mình có, thì khi ấy “họ không phân biệt được Thân Thể Chúa và như thế là, họ ăn và uống án phạt mình” (1Cr 11,29), khi ấy họ “khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người nghèo” (1Cr 11,22). Họ chịu phán xét như Thư thứ nhất thánh Gioan nói: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1Ga 3,17).

Một yếu tố thứ hai cần nhấn mạnh trong đời sống của cộng đoàn Kitô hữu là sự quan ngại đối với của cải giàu sang. Tinh thần nghèo khó, vốn đòi hỏi phải tuyệt đối không bao giờ đặt tin tưởng vào của cải, dù là của ta hay không của ta. Những lời công kích của thánh Giacôbê, phản chiếu những lời các tiên tri thời cổ Israel tấn công những kẻ giàu có áp bức, bóc lột người nghèo (x. Gc 5,1-6), khiến ta phải suy nghĩ. Ở đây tố cáo của cải giàu sang đáng ghê tởm, chỗ khác ta đọc thấy: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì thế, người Kitô hữu được cảnh báo có thể trở thành người quản gia của Satan, tức là kẻ phục vụ cho các ích lợi của nó; không phải quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu bằng những lời này: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý” (Lc 4,6) hay sao? Cộng đoàn Kitô hữu đặt tất cả mọi sự vào mục đích xây dựng sự hiệp thông và chia sẻ, chống lại những cám dỗ trong đời sống hằng ngày chỉ biết tích lũy của cải vì tham lam. Sống đẹp, đơn sơ, thanh đạm, nghèo khó là lời chứng thuyết phục, luôn được bảo đảm và canh tân mỗi ngày bằng sự chia sẻ với người khác, với những người nghèo.
 
Một đặc tính thứ ba của tinh thần nghèo khó trong đời sống cộng đoàn Kitô, đó là: liên đới với người nghèo, nhìn đến những người nghèo, xem người nghèo như dấu chỉ huyền nhiệm của Chúa Kitô, và đồng thời, cũng là “mầu nhiệm tội lỗi ở trong thế gian”, họ là nạn nhân của lịch sử những kẻ quyền thế, những người thống trị thế giới này (1Cr 2,8). Lựa chọn ưu tiên người nghèo có nghĩa là chia sẻ các của cải cả ở bên ngoài cộng đoàn, với những người nghèo đang sống trong thế giới.
 
2. Sống tinh thần nghèo khó như thế nào
 
Mục đích của sống đức nghèo khó là bác ái yêu thương
 
Nghèo khó tự thân không phải là một mục đích của đời Kitô hữu, nhưng là một phương thế sống để yêu thương hơn nữa, để bước vào không gian của đức mến vốn “không bao giờ mất được” (1Cr 13,8). Do đó, tinh thần nghèo khó cần luôn luôn và trước hết phải được chứng thực trong thực hành đức mến hằng ngày hướng đến những người đang sống với chúng ta, những người khác, đến những người túng thiếu nhất. Tinh thần nghèo khó luôn phải được đo lường bằng tình yêu, như Đức Giêsu đã nói về người phụ nữ tội lỗi ăn năn đã xức dầu thơm quý giá đắt tiền cho Người (x. Mc 14,3-9; Mt 26, 6-13; Ga 12,1-80).
 
Sống nghèo khó là chia sẻ
 
Thực danh của đức nghèo khó là chia sẻ. Từ koinonía, theo nghĩa “thông dự những gì người ta có”, được tác giả sách Công vụ Tông đồ sử dụng để chỉ “sự dị biệt” người ta sống trong cộng đoàn Kitô hữu sơ khai: các tín hữu khi ấy “siêng năng tham dự hiệp thông” (Cv 2,42); “họ để mọi sự làm của chung” (hápanta koiná: Cv 2,44); “mọi sự đối với họ là của chung” (hápanta koiná: Cv 2,43). Hình ảnh lý tưởng đó của Hội thánh sơ khai luôn là linh hứng cho đời đan tu về sau và cho tới hôm nay. Chia sẻ, hiệp thông của cải có nghĩa là không ai có tiền của, tài sản, lợi tức lao động riêng tư: tất cả thực sự là của chung và dùng chung.
 
Khía cạnh này của đức nghèo khó hẳn là gây vấp phạm nhất, tạo nghịch lý nhất và đáng sợ nhất; chúng ta nhớ Học thuyết xã hội công giáo tuyên bố rằng quyền tư hữu tài sản là một quyền không thể bị khước từ! Các đan sĩ trong đan viện không có tài sản gì riêng tư ngoài bộ áo quần và sử dụng các dụng cụ lao động, tất cả mọi sự khác đều thuộc về sở hữu chung. Chia sẻ của cải là khía cạnh khó sống nhất nhưng nếu không có điều đó thì cũng không có khả năng sống hiệp thông, vốn là mô thức của cộng đoàn Kitô giáo.
 
Nghèo khó là làm việc bằng chính đôi tay mình
 
Nghèo khó của đời sống đan tu biểu lộ nơi lao động bằng đôi tay của mình và không để mình phải nên gánh nặng cho người khác.
 
– Mỗi người phải làm việc bằng chính sức mình hầu tạo ra của cải mà cứu giúp những người túng thiếu (Ep 4,28).
 
– Ai không muốn làm việc thì đừng có ăn (2Tx 3,10).
 
– Chúng tôi xin và kêu mời anh em trong Chúa Giêsu Kitô hãy làm việc trong bình an và dùng phần ăn mà mình đã kiếm được (2Tx 3,12).
 
Sống nghèo khó là giúp đỡ người nghèo
 
Sống nghèo khó là giúp đỡ người nghèo túng với những thành quả do chính sức mình làm ra. Có nhiều hình thức khác nhau để giúp người nghèo. Giúp người nghèo qua đường dừng lại gõ cửa nhà mình xin giúp đỡ, nhưng cũng cần giúp những người nghèo khác ở xa hơn trong vùng ta ở hay những vùng miền xa xôi hơn trên thế giới. Truyền thống đan tu xưa kêu gọi trích một phần mười huê lợi kiếm được để giúp người nghèo. Giúp đỡ người nghèo còn một hình thức truyền thống nữa là đừng đòi hỏi điều gì nơi khách xin đỗ nhà.
 
Sống nghèo khó là biết sống chừng mực
 
Chia sẻ của cải là điều rất tốt nhưng chưa đủ. Người tận hiến còn biết đảm nhận một cuộc sống trước hết ở tầm mức cá nhân, sao cho thật đơn sơ, thanh bạch, chừng mực, rồi kế đến ở tầm mức cộng đoàn cũng thế.
 
Tinh thần khó nghèo cộng đoàn
 
Một khi người ta sống cộng đoàn, mà sống tạm bợ thiếu ăn hoặc thiếu thốn đủ điều, là một điều thật khó khăn. Thế nhưng tinh thần khó nghèo cộng đoàn xuất phát từ đòi hỏi về tính triệt để của Tin mừng. Một hình thức của nghèo khó cộng đoàn trong truyền thống đan tu phản chiếu nơi chọn lựa cung ứng phục vụ cho khách chỗ ăn ở và tiện nghi tốt mà cộng đoàn không dành cho mình. Theo truyền thống đó, khách đến nhà là Đức Kitô đến viếng thăm.
 
Nghèo khó trong tâm hồn
 
Tinh thần nghèo khó hay nghèo khó trong tâm hồn bộc lộ qua thái độ khi người ta tiếp đón những người nghèo, hèn mọn đến gõ cửa nhà, qua cung cách ta cư xử, lắng nghe họ, không xét đoán căn cứ trên tình trạng nghèo hèn đơn sơ của họ. Người có tâm hồn nghèo khó thì khiêm nhu, không ngại tiếp xúc gần gũi với những người nghèo. Trái lại, kẻ không có tâm hồn nghèo khó thì hay xa lánh người nghèo và không bao giờ thích hòa mình vào cuộc sống của họ, không quan tâm đến những quyền lợi hay nhu cầu của họ, lại càng không muốn sống phận thiếu thốn của họ.
 
Kết luận
 
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với những người sống đời thánh hiến rằng trong Năm Thánh hiến này (2015) ngài mong đợi anh chị em đó “đánh thức thế giới” vì đặc trưng của đời thánh hiến là tính tiên tri. Ngài nói:
 
“Như tôi đã nói với các bề trên tổng quyền: “Tính cách triệt để không chỉ dành riêng cho các tu sĩ, nhưng là điều đòi hỏi nơi hết mọi người. Nhưng các tu sĩ đi theo Chúa một cách đặc biệt, đó là cách thức của một tiên tri”. Đây là điều đòi hỏi ưu tiên: “những vị tiên tri làm chứng cho Đức Giêsu đã sống ở thế giới này... Một tu sĩ không bao giờ được khước từ tính cách tiên tri” (29/11/2013).
 
Tiên tri được Chúa ban khả năng truy tầm lịch sử mình đang sống và giải thích những biến cố, tựa hồ người lính canh ban đêm và biết được khi nào hừng đông đến (x. Is 21,11-12). Ông hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết những người anh chị em của mình. Vị tiên tri có khả năng phân định và tố giác tội lỗi và những bất công, bởi vì ông là con người tự do, chỉ trả lẽ với Thiên Chúa chứ không phải trả lẽ cho quyền bính nào hết, ông chỉ quan tâm đến lợi ích của Thiên Chúa chứ chẳng có lợi lộc nào khác. Vị tiên tri thường đứng về những người nghèo và những người cô thế cô thân, bởi vì ông biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ”.[1]
 
–––––––––––––––––––––––––––––––––
 
[1] ĐGH Phanxicô, Tông thư gửi tất cả những người thánh hiến nhân dịp Năm Đời Sống Thánh hiến
 
(Nguồn: WHĐ)