A. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
- Cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối
Trong một thời gian khá lâu, đất nước Việt Nam sống trong thời kỳ bao cấp, một thời kỳ tạo nên những cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối. Điều này mới nghe thì thấy khó hiểu. Tại sao đời sống tu lại chịu ảnh hưởng của đời sống xã hội tràn vào? Nhưng chúng ta cũng phải biết trong những hoàn cảnh khó khăn, nguyên sự hiện diện và tồn tại được cũng là quý lắm rồi. Từ bối cảnh đó chúng ta hiểu là anh chị em tu sĩ nam nữ phải xoay sở, đôi khi phải khai gian nếu không thì bị loại trừ.
Đời sống cơ cực, các sinh hoạt thì bị o ép, ai cũng nói theo ý cấp trên. Nó tạo nên sự huỷ hoại các giá trị chân chính của bản chất con người: đơn sơ, chân thật. Đó là một sự tan rã các giá trị tinh thần.
– Tính cách đoàn lũ khiến cho người ta không có thói quen có suy nghĩ riêng và không ai có can đảm nói lên cảm nghĩ riêng của mình, chỉ cần một vị lãnh đạo nói một điều gì tất cả xã hội đều rợp ràng ca tụng.
– Tính cách hình thức chẳng hạn sinh hoạt quốc hội, người ta chỉ việc giơ tay nhất trí những gì đã được trên đưa xuống, những công tác xã hội chủ nghĩa nặng hình thức, những lối báo cáo thành tích ghê gớm mà thực chất không có bao nhiêu.
– Tính cách gian dối chẳng hạn tình trạng báo cáo láo, kiểu làm ăn lời giả lỗ thật của các xí nghiệp quốc doanh.
Những điều đó không khỏi không ảnh hưởng đến nhân cách của tu sĩ, xét như những con người sống trong xã hội.
- Những vấp váp trong thời kinh tế thị trường
Sự hụt hẫng trong khi bước vào đổi mới về cung cách quản lý vì chưa thấm được những luật chơi của nền kinh tế thị trường, chẳng hạn sự liêm chính, ý thức chung, tinh thần tự chủ, khả năng sáng tạo. Có người nói hai đứa con của thời bao cấp tạo nên: đạo đức giả, và thói vô trách nhiệm. Ngược lại thời kinh tế thị trường lại mang tính cách một thứ “tư bản hoang dã” và sản sinh ra hai đứa con là: nóng vội kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ.
Thái độ thực dụng là con đẻ của nền kinh tế thị trường, bởi vì trong xã hội ấy, dần dần người ta rơi vào cám dỗ dễ dãi: đặt hết tầm quan trọng của cuộc đời vào những phương tiện, những dịch vụ. Chẳng hạn: khi đi học, họ thấy cần xe, cần quần áo… mà không hề quan tâm đến tinh thần học hỏi của mình.
Rồi qua lăng kính của kinh tế, người ta cũng dễ dàng đánh giá con người dựa vào của cải tài năng. Khi thời bao cấp đã hết, nhà trường cho phép các dòng tu được mở các trường mầm non. Đa số các cộng đoàn đều có các nhóm trẻ, các trường mầm non. Càng ngày, vì nhu cầu đáp ứng cho việc dào tạo mẫu giáo, những nhà cao tầng đã mọc lên. Những biến chuyển này cũng làm cho các sinh hoạt cũng như trong các môi trường đào tạo để giải quyết vấn đề nhân sự và đầu tư cho giáo dục mầm non. Điều đó rất tốt vừa hợp với sứ vụ giáo dục vừa có điều kiện để nuôi sống cộng đoàn. Như thế, trong thực chất không có gì làm cho chúng ta băn khoăn, tuy nhiên do những biến thái của nó làm cho chúng ta suy nghĩ. Người ta đánh giá các hoạt động các dòng tu qua các cơ sở. Đời tu không còn có giá trị ngôn sứ. Hay đúng hơn là ngôn sứ giả. Ngày nay, người ta cũng nói đến đời sống nghèo, đời sống khiêm tốn. Tuy nhiên, đó chỉ là trên lời nói còn thực tế lại khác xa.
B. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI VÀO ĐỜI SỐNG TU TRÌ
Trong một thời gian dài Giáo Hội bị cắt đứt những liên hệ với thế giới Kitô giáo. Những tương tác về tinh thần, về não trạng, về tâm thức sống đạo, về tâm thức đời tu chưa bắt nhịp với thế giới bên ngoài và chúng ta cảm thấy hụt hẫng khi phải giao tiếp với nền tu đức mới. Giáo Hội Việt Nam cũng như hầu hết các tôn giáo khác, có lẽ đã chia sẽ những khó khăn chung của đất nước. Giáo Hội đã vượt qua nhiều thử thách một cách khá anh hùng. Tuy nhiên những vết sẹo do cuộc chiến ấy cũng để lại những vết thương và mầm bệnh sâu xa trong cơ thể. Ảnh hưởng của xã hội cũng phần nào ảnh hưởng trên nếp nghĩ và cách sống.
- Đời sống trưởng giả
Các tu sĩ và linh mục đua nhau sắp sửa những đồ dùng từ xe cộ nhà cửa… người tu sĩ trẻ chỉ còn biết đánh giá nhau bằng việc học, bằng những cố gắng để thăng tiến về phương diện xã hội.
- Sự tách biệt giữa đời sống đạo và sinh hoạt hằng ngày
Giáo Hội không khám phá ra nhu cầu Thiên Chúa của con người hôm nay. Giáo Hội không có khâu tiếp thị, nên chỉ có những thức ăn đồng loạt nấu sẵn… Hơn nữa lời giảng của những linh mục có khuynh hướng lôi kéo ra khỏi cuộc sống của họ, dựa trên nếp sống linh mục, tạo nên một cuộc cạnh tranh giữa sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt trần thế.Bài giảng của linh mục chỉ là những sáo ngữ, những điều mà người nói đã học được, đã cố suy nghĩ để có cái mà nói, những tự thâm tâm cũng không biết rằng người ta có thể sống được với điều ấy không, hoặc chính người nói cũng chẳng bao giờ cố gắng một chút để sống điều mình nói…
C. NGUY CƠ TỤT HẬU TRONG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI TU
- Chúng ta có thể nhận thấy một số biểu hiện có sự tụt hậu về nhân cách:
– Càng tu càng trở nên “khờ người” ra: người tu sĩ được đào tạo trong bầu khí “được quyết định thay” về nhiều chuyện, nên ít có khả năng tự quyết đoán và tự chọn thái độ của chính mình.
– Thiếu sáng kiến: trong đời sống tu người trẻ dù đã lớn tuổi họ đã có bằng cấp cao vẫn trở thành người còn quá non nớt trong lãnh vực tu trì, khiến cho các bạn trong thời gian thụ huấn thường không phát huy được năng lực của mình.
– Thiếu trưởng thành: một người trẻ ngoài đời đang học đại học, có khả năng chọn lựa nếp sinh hoạt của mình (nên xem tivi những chương trình nào, nên đi chơi những dịp nào…). Trong khi ở nhà Dòng các bạn đó lại thường được cái vị hữu trách, được nếp sống kỷ luật quyết định thay. Dần dần bạn không còn khả năng chọn lựa một cách trưởng thành nữa: khi được phép thì xem tivi cho hết chương trình, khi có thể thì trốn lễ.
– Ít khả năng phấn đấu: trong các nhà Dòng lớn, các thụ huấn sinh được bao cấp đến hết mọi chuyện. Khi không có được nhiều quyền tự do, người ta cũng không thấy được trách nhiệm và giới hạn của mình và luôn đổ lỗi cho cơ cấu, cho hoàn cảnh. Đồng thời cũng thường đòi hỏi yêu sách… Những điều đó làm cho người thụ huấn càng ngày càng giảm khả năng phấn đấu.
– Khuôn phép trong nếp sống, xơ cứng trong quan điểm: đời sống tu trì từ bao đời nay được hiểu như là một nếp sống khuôn phép. Nếp sống đều đặn, giờ giấc kỷ luật, làm cho người ta rất lúng túng trong một môi trường tự do và phải quyết định chương trình sống cho mình. Họ không dám quyết định và ít can đảm nhận trách nhiệm của mình.
– Nếp sống “tiểu kỷ”chính là cái tôi bé nhỏ, cam chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ ân huệ, vun quén, xà xẻo, khôn khéo lẩn tránh, não trạng khép kín, luồn cúi, khúm núm, an phận, phụ thuộc, manh mún, tiểu xảo, rình được một cơ hội nào đó thuận tiện thì tìm cách xoay xở, vun quén chút ít cho cái tôi nhỏ bé.
Nếp sống tu trì chỉ dựa vào một khuôn khổ, từ chuyện kinh nguyện cho đến việc học hỏi và công tác tông đồ. Giờ giấc kinh hạt được coi là tiêu chuẩn để đánh giá khiến cho người tu ít khi tự nguyện, tự do và sáng tạo để tìm cho mình một cách thức sống tâm linh.
Tất cả những thứ vỏ cứng như thế chỉ tạo nên một thói quen hơn là một giá trị tinh thần. Khi những thói quen ấy bị phá vỡ, một lỗ hổng của nhân cách sẽ lộ ra.
D. CÁC TU SĨ TRẺ HÔM NAY
Những nhận định này không phải muốn “vơ đũa cả nắm” nhưng chỉ nêu ra mấy điểm nổi bật mà thôi.
- Thực trạng thực dụng
Do ảnh hưởng nền kinh tế thị trường với hiệu quả được xem là thước đo mọi giá trị, nên người trẻ hôm nay lại sống rất thực tế, xét cho cùng, thì thực tế là tốt, vì sẽ mang lại hiệu quả cao, nhưng thực tế quá dễ rơi vào não trạng thực dụng. Thực dụng là lựa chọn cái gì có lợi trước mắt. Đối với con người hiện đại cái lợi trước mắt là tiền bạc, danh vọng, quyền lực, người ta tìm kiếm những giá trị đó thay vì tìm kiếm cuộc sống có đạo đức cao. Đối với tu sĩ có khuynh hướng thực dụng thì điều họ tìm kiếm bằng cấp, đời sống tiện nghi, cuộc sống an toàn, ổn định, uy tính, ảnh hưởng, tư lợi… thay vì tập luyện những nhân đức khó nghèo, khiêm tốn, công bằng, bác ái.
Để giảm bớt não trạng thực dụng, cần khơi gợi nơi người trẻ lòng nhân ái, và đi đến với người nghèo để chia sẻ với họ.
- Khuynh hướng tự do
Ngày nay, theo nhịp tiến của thời đại, tinh thần dân chỉ thấm nhập mọi lãnh vực, người ta coi trọng khả năng, ý kiến cá nhân, cụm từ “tự khẳng định mình” được thường xuyên sử dụng. Tự do là một giá trị cao quý, nó làm nên phẩm giá con người nhờ đó các bạn trẻ cởi mở, tự tin, phát huy sáng kiến. Nhưng nếu không hiểu cho đúng, tự do sẽ thành phóng túng hỗn loạn.
Người trẻ khó chấp nhận một thứ đạo đức gò bó nặng về cấm kỵ, khó chấp nhận nề nếp tu trì truyền thống. Họ muốn sống đạo đức, sống đời thánh hiến theo cách mà họ thích và lựa chọn. Những gì phù hợp với mình thì mình chập nhận, không phù hợp thì từ chối. Nếu bị buộc phải theo thì chấp nhận cách miễn cưỡng “chịu vậy” chứ không phải là phục vụ.
Để có thể giúp tu sĩ trẻ chấp nhận một quy định, một đòi hỏi, trước hết cần kiên trì giải thích, thay vì ra lệnh, áp đặt từ trên xuống. Tuy có khuynh hướng tự do, nhưng không phải là các bạn trẻ không biết lắng nghe cách chân thành. Ở đây cần giúp các bạn phân biệt được một điều khuyên và một điều đòi hỏi; phân biệt giữa cái mình thích và cái mình cần yêu mến.
- Thích phê phán
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trào lưu dân chủ, óc phê bình cũng sẽ mạnh hơn. Các bạn trẻ thích phê phán. Có những phê phán đúng và cũng có những phê phán không đúng. Có những phê phán để làm rõ chân lý và cũng có những phê phán chỉ nhằm bôi nhọ người khác. Có những phê phán công khai, nhưng đa phần là những phê phán sau lưng và khi đến tai người bị phê phán thì đã phải tam sao thất bổn! Điều đáng nói là khi trình độ văn hoá còn hạn chế hoặc do chưa đủ chín chắn, thói quen phê phán dễ ngã sang hướng tiêu cực, vừa bới móc, thích đưa mình lên và hạ kẻ khác xuống. Lắm khi lời phê phán gây tổn thương sâu xa cho người khác đặc biệt là nơi những ai có tâm hồn nhạy cảm.
Để giúp bạn trẻ có tinh thần khiêm tốn đòi mình sống khiêm tốn hơn và yêu thương các chị em, nhắc nhở các chị em biết tôn trọng chân lý và tôn trọng người khác nhất là khi vắng mặt.
Thay lời kết: Mong ước nơi các chị em trẻ
– Mong các chị em nhận ra ơn gọi của mình để tự ý đáp trả và cam kết dấn thân. Để từ đó các chị em có thêm nghị lực vượt qua những thử thách trong đời tu và đứng vững trong ơn gọi của mình.
– Mong các chị em biết nhận ra lỗi của mình để sửa và cố gắng sửa để hoàn thiện mình hơn. Và ngày một thêm tin tưởng, can đảm hơn: sai không sợ, bại không nản nhưng chỉ lo người không có chí vượt lên chính mình mà thôi.
– Mong các chị em trở thành những người hữu ích cho Giáo Hội và cộng đoàn. Trở thành người dễ răn, dễ dạy, sống hòa đồng vui vẻ…
– Mong các chị em trở thành những thành viên chín chắn đi đúng với đường lối của Dòng, để các chị em là những người kế tiếp xây dựng Hội Dòng ngày càng vững chắc hơn.
– Mong cho các chị em phát huy hết khả năng, năng khiếu của các chị em để phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân.
– Mong các chị em luôn có khả năng làm chủ bản thân mình, biết phân định trước mọi vấn đề, và biết chịu trách nhiệm về những hành động của mình.
– Mong các chị em sống thành thật, tiết độ, công bằng, khôn ngoan, luôn biết cách tự chế để làm chủ được chính mình, và thắng được bản năng tự nhiên của mình. Biết tự chế trong việc nhỏ và tầm thường, thì mới chấp nhận được những đòi hỏi trong đời sống cộng đoàn và đời tu.
– Mong các chị em luôn coi Hội Dòng như là mái ấm Gia đình của mình, để khi đi thì nhớ, khi ở thì thương.
– Mong các chị em biết vâng lời trong đối thoại, tin tưởng với tinh thần khiêm tốn. Biết cảm thông, tha thứ, kính trọng và yêu thương.
– Mong các chị em khi muốn trách móc Bề Trên, thì hãy đặt mình vào cương vị Bề Trên
Lm. Đa Minh Đinh Viết Tiên
Nguồn: gpcantho.com
Cuộc đời như tấm gương soi, qua đó ta có thể nhận ra chính mình. Trước tiên, nó phản ảnh Cái Tâm của ta: Kẻ bi quan thấy đời đáng buồn... Người lạc quan thấy đời sao vui thế!
Thứ đến, nó phản ảnh cách ta Cư Xử: Kẻ trao nụ cười sẽ nhận lại những nụ cười. Ai chỉ than thở sẽ thấy toàn những tiếng thở than... Kẻ ích kỷ suốt đời lầm lũi cô đơn... Người vị tha có nhiều người thương mến... Người dễ thương là người dễ dàng thương người khác và ai muốn thương họ cũng dễ... Kẻ khó thương là người chẳng muốn thương ai, nên cũng khó có ai có thể yêu thương họ.
Chúng ta nên thận trọng: Cần Lắng Nghe dư luận phản ảnh về mình... Nhưng đừng quá lệ thuộc vào dư luận! Phải quan tâm đến dư luận vì thường “không có lửa làm sao có khói”? Nhưng đừng quên: Đâu chỉ có gương phẳng, mà còn có gương lồi, gương lõm… “Dư luận vốn vẫn thường.. luận dư” mà! Điều quan trọng là chúng ta phải Tự Biết mình là ai, thế nào, tốt hay xấu, và thực chất chúng ta ra sao...
Gương soi tốt nhất là chính Tâm Hồn chúng ta. Hãy soi lòng để biết chính mình: “Tôi đáng khen hay đáng chê”?:
- Nghe lời khen hão rồi lúc nào cũng tự khoe mình - đó là Tự Kiêu.
- Nghe lời chê bai, rồi khép kín không dám bộc lộ hay làm gì cả - đó là Tự Ty.
- Nghĩ mình hơn những người chung quanh, đến nỗi chẳng coi ai ra gì - đó là Tự Tôn.
- Nghĩ mình hoàn chỉnh, không cần phải cố gắng hay phấn đấu chi nữa - đó là Tự Phụ.
- Làm việc không vì lời khen chê, mà chỉ để không thẹn với lòng mình - đó là Tự Trọng.
Tự kiêu, tự ti, tự tôn, tự phụ hẳn nhiên là không nên rồi! Nhưng lòng tự trọng cần phải phát huy:
- Người không tự trọng thì cũng khó mà tôn trọng người khác.
- Người Tự Trọng ý thức về mọi hành vi của chính mình: biết giới hạn và ưu điểm, biết thất bại và thành công, biết rút ra kinh nghiệm từ quá khứ của mình.
- Người tự trọng không làm điều xấu ác, vì không muốn tự bôi nhọ bản thân.
- Người tự trọng thực hiện điều tốt cốt không vì được tiếng khen, mà chỉ vì nghe theo tiếng gọi sâu thẳm trong lòng luôn hướng về điều lương thiện.
- Người tự trọng soi gương cuộc đời để nhận biết khuyết điểm cần sửa đổi và hoàn thiện tư cách.
Con người hay hoặc dở không phải vì ảnh trong gương đẹp hay xấu, mà do họ SUY NGHĨ & HÀNH ĐỘNG như thế nào.
Trích trong tập sách: NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT
Lm Micae - Phaolo Trần Minh Huy, ssp
Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên thần Hộ thủ để đồng hành với chúng ta, cho lời khuyên và bảo vệ, một thiên thần mà chúng ta nên lắng nghe với sự hiền lành và tôn trọng. Đây là lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thánh lễ ban sáng ngày thứ sáu, 02-10, lễ kính Thiên thần Hộ thủ, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.
Lấy ý từ lễ kính các Thiên thần Hộ thủ, bài giảng của Đức Giáo hoàng suy niệm về sự hiên diện thiêng liêng này trong đời sống chúng ta, ngài mô tả các thiên thần là đại sứ Chúa gởi đến đồng hành với mỗi một người chúng ta. Ngài lưu ý rằng, bằng chứng cho điều này được mô tả trong biến cố Thiên Chúa đuổi Ađam ra khỏi vườn Địa đàng. Ngài không để Ađam đơn độc tự thân vận động, hay bảo là ‘gắng hết sức mà tự lo cho mình đi.’ Nhưng, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh rằng, mỗi một người đều được Chúa ban cho một Thiên thần Hộ thủ ở bên cạnh mình.
Đại sứ của Chúa bên cạnh chúng ta
‘Ngài luôn luôn ở với chúng ta! Và thực tế là vậy. Như có một đại sứ của Chúa ở với chúng ta. Và Chúa khuyên chúng ta rằng: ‘Hãy tôn trọng sự hiện diện của thiên thần hộ thủ!’ Và ví dụ như, khi chúng ta, phạm một tội và tin rằng chúng ta phải đơn độc mà tự liệu cho mình: Nhưng không, ngài có ở đó. Hãy biết tôn trọng sự hiện diện của ngài. Lắng nghe tiếng thiên thần, bởi ngài cho chúng ta lời khuyên. Khi chúng ta nghe lời linh hứng: ‘Nhưng hãy làm thế này … thế này tốt hơn … đừng làm việc đó.’ Hãy lắng nghe. Đừng chống đối ngài.
Thiên thần hộ thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt là khỏi sự dữ. Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể giấu diếm nhiều thứ, những sự xấu xa, nhưng đến cuối cùng luôn được phơi bày ra ánh sáng. Thiên thần hộ thủ ở đó để cố vấn cho chúng ta và ‘che chắn cho chúng ta’ như một người bạn. Một người bạn mà chúng ta không thấy nhưng nghe được. Một người bạn đến một ngày sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui bất diệt của Thiên đàng.’
Tôn trọng và lắng nghe thiên thần hộ thủ
Đức Phanxicô tiếp lời, ‘Tất cả những gì ngài muốn là chúng ta hãy lắng nghe và tôn trọng ngài. Tất cả chỉ là: tôn trọng và lắng nghe. Và sự tôn trọng cùng lắng nghe người bạn đồng hành này, chính là sự hiền lành. Người Kitô hữu phải hiền lành, khi đối diện với Thần Khí Chúa. Hiền lành với Thần Khí mở đầu bằng sự nhún nhường trước lời khuyên của người bạn đồng hành trên đường đời của chúng ta.
Và để hiền lành, chúng ta cần phải trở nên nhỏ bé như trẻ nhỏ, và thiên thần hộ thủ của chúng ta là một người đồng hành dạy chúng ta sự khiêm nhượng này, và chúng ta nên lắng nghe ngài với lòng khiêm nhượng như đứa trẻ.
Chúng ta cùng nguyện xin Chúa ơn hiền lành này, ơn biết lắng nghe tiếng của người bạn đồng hành thiêng liêng, tiếng của đại sứ Chúa sai đến đi cùng chúng ta và nâng đỡ chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tiến tới trên đường. Và trong thánh lễ này, khi chúng ta tôn vinh Chúa, hãy nhớ lại Chúa tốt lành biết bao, Đấng ngay sau khi chúng ta đánh mất tình thân với Ngài, đã không để chúng ta một mình, không bỏ rơi chúng ta.’
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio Eng
Nguồn: http://phanxico.vn
Đây là một đoạn trích trong bài "CHÚA THÁNH THẦN, TÁC GIẢ CỦA SỰ ĐA DẠNG VÀ LÀ NHÀ KIẾN TẠO HIỆP NHẤT" Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ đại diện các Dòng tu tại Đại hội Công Nghị Quốc Tế ngày 4-5-2018.
Nhận thấy rất ý nghĩa để mỗi người tu sĩ cần đọc và suy gẫm để sống trong đời sống dâng hiến của mình và để xây dựng Hội Dòng theo con đường nghèo khó của Chúa Giesu
.....
2. Chữ “P” thứ hai, đó là sự “Khó Nghèo - Poverty”.
Trong Hiến Pháp, Thánh Ignatio, Dòng Tên, đã viết như thế này, “Nghèo khó là người mẹ, là tường bao bọc đời sống thánh hiến” - xem ra bản gốc không phải của ngài, tôi nghĩ ngài trích câu này đâu đó từ các Giáo Phụ Sa Mạc. Nghèo khó là “mẹ” - thật lý thú. Thánh Ignatio không nói người mẹ đó là đức trinh khiết vốn liên quan đến thiên chức làm cha, thiên chức làm mẹ. Không, ngài nói nghèo khó là mẹ. Không có đức nghèo khó, đời sống thánh hiến không đơm hoa kết trái. Hẳn chắc, nghèo khó là tường luỹ, là vật che chắn bảo vệ chúng ta khỏi lây nhiễm tinh thần thế tục.
Ai trong chúng ta cũng biết, sự dữ đi vào lòng người ngang qua những túi tiền. Những cám dỗ cỏn con lỗi đức khó nghèo là thương tích của các thành viên trong thân mình cộng đoàn thánh hiến. Lời khấn khó nghèo tuân theo Quy Luật, theo Hiến Pháp của mỗi Hội Dòng không giống nhau. Quy Luật dạy, “Luật chúng ta không cho phép điều này; luật dòng không ban phép điều kia”, nhưng luôn luôn có một điểm chung là tinh thần nghèo khó và chúng ta không cần bàn cãi điều này. Không có đức khó nghèo, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng phân định đúng đắn những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay.
“Hãy từ bỏ mọi sự, đến với người nghèo!”, Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên như thế và người thanh niên đó là tất cả chúng ta. “Nhưng thưa Đức Thánh Cha, không, con có của cải gì đâu?” Phải, nhưng con có một cái gì đó, một vài dính bén nào đó. Chúa Giêsu yêu cầu điều này và đó là cậu nhóc Isaac mà con phải hiến tế; một linh hồn trần trụi, một linh hồn khó nghèo. Với tinh thần nghèo khó này, Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta, Người phòng ngự giúp chúng ta tránh khỏi bao vấn đề và vô vàn cạm bẫy khác vốn đang chực huỷ hoại đời sống thánh hiến.
Có ba bước khi khởi đi từ đời sống thánh hiến tu trì sang tục hoá bậc tu trì. Phải, ngay nơi các Tu sĩ. Phải nhìn nhận đang có một sự tục hoá Tu sĩ, nhiều nam nữ Tu sĩ và nhiều người sống đời thánh hiến giờ đây trở nên quá thế gian. Hãy xét đến ba bước: bước thứ nhất, tiền, lỗi đức khó nghèo; bước thứ hai, vênh vang, từ việc gắng sức khoe mẽ như một con công đến những vênh vang vụn vặt; và bước thứ ba, kiêu ngạo, tự phụ… Rồi từ đó, bao nhiêu điều xấu xa kéo theo.
Bước thứ nhất chính là sự ràng buộc với của cải, dính bén tiền bạc. Nếu chúng ta cảnh giác điều này, những điều khác sẽ không đến. Và tôi nói, của cải, không chỉ tiền bạc nhưng là sự quyến luyến vật chất. Để có khả năng phân định những gì đang xảy ra, phải có tinh thần khó nghèo. Và đây, một số câu hỏi để chúng ta xét mình:
Tôi sống khó nghèo làm sao? Hãy nhìn vào những ngăn kéo của các linh hồn. Hãy nhìn vào mỗi cá nhân, nhìn vào Hội Dòng… Chúng ta đang sống nhân đức nghèo khó thế nào?
Đó là bước thứ nhất, nếu chúng ta bảo vệ nhân đức này, những điều khác sẽ cao chạy bay xa. Khó nghèo là tường luỹ bảo vệ chúng ta khỏi bao điều khác. Khó nghèo là bà mẹ giữ cho chúng ta nên người tu trì hơn, dạy chúng ta biết đặt mọi của cải mình có nơi Thiên Chúa. Khó nghèo là tường chở che chúng ta khỏi sự tục hoá ngày càng phát triển vốn đang đe doạ nghiêm trọng bất cứ Tu sĩ nào trong thời buổi hôm nay.
.....

1. Nguồn cội của đức nghèo khó Kitô giáo
Mọi người, nam cũng như nữ, cần phải nhìn nhận, đón nhận, đảm nhận phận nghèo khó cơ bản này, mà nếu không có cái nghèo ấy người ta không thể đi suốt con đường nhân linh hóa trong quan hệ với người khác, với nhân loại, với toàn thể tạo thành, vũ trụ. Chính vì khó chấp nhận điều đó mà người ta dung túng ý định tránh né trong mơ mộng, ảo tưởng rằng có thể sống mà không cần người khác hoặc thậm chí chống lại người khác, khi đi trên hành trình của hiệp thông khó khăn và nhọc nhằn. Thế nhưng, sống chấp nhận thân phận nghèo khó bản thể của con người là một đòi hỏi cơ bản đối với mọi người, dù là Kitô hữu hay không Kitô hữu, nếu muốn trở nên người nhiều hơn, càng ngày càng là người hơn. Vì thế mà ta hiểu tại sao đức vâng phục Kitô giáo khởi đi từ sự chấp nhận thân phận thụ tạo của mình, chấp nhận chính mình và sự thật - thực tại của mình.
Và chính sự nghèo khó từ căn để này của phận người – là con người sau cùng dứt khoát phải chết, phó thác sự sống mình trong tay Tạo Hóa, Đức Chúa Cha (x. Lc 23,46; Tv 31,6) – đã đưa người tin đến chỗ thờ lạy Đức Chúa hằng sống. Hành động thờ lạy này, vốn là cao điểm của lòng tin, mục đích của niềm tin, gắn kết với Thiên Chúa, là cái gì đây? Đó là sự thú nhận cái nghèo nàn, những thiếu thốn của mình; là có thể nói với Thiên Chúa rằng: “Xin cho ý Cha được thành sự” (Mt 6,10; 26,42; x. Lc 22,42); là đứng trước nhan Thiên Chúa đối diện và nói với Ngài, trong khi nhìn nhận Ngài là nguồn cội và cùng đích của sự sống chúng ta. Có thể nói rằng ai không nghèo và không cảm thấy mình nghèo hèn không thể thờ lạy Thiên Chúa, nhưng thờ Mammon, tiền tài của cải thế gian. Đây là một trong những cám dỗ đầu tiên Chúa Giêsu chịu trong hoang địa (x. Mt 4,8-9), được vượt qua bởi những lời sau đây: “Người hãy thờ lạy Đức Chúa Thiên Chúa ngươi và chỉ thờ lạy một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10; Đnl 6,13).
Trong Cựu ước, nghèo được cho là túng thiếu, trong khi giàu có là dấu của bình an hiện diện, như ân sủng và phúc lành của Thiên Chúa ban xuống cho người công chính, cho tín hữu (x. Tv 34,10-11; 112,1.3). Tuy nhiên người nghèo luôn là đối tượng được Thiên Chúa bảo vệ, chăm sóc và quan tâm. Những người nghèo là hệ quả của một sự bất công xã hội nào đó, là nạn nhân của áp bức và bóc lột, bởi thế có sự hiện diện những kẻ thuộc giai cấp quyền lực và giàu có bóc lột. Người nghèo bởi thế bị tước mất phẩm giá, chính vì thế Thiên Chúa xót xa và cảm thương họ, đến độ đau khổ cùng họ (x. Xh 2,25), trở nên đấng cứu độ và báo oán cho họ (Tv 72,12-14). Trong sách Torah Thiên Chúa tỏ ý muốn của Ngài đối với xã hội Do thái: “Tuyệt nhiên giữa anh em đừng có người nghèo” (Đnl 15,4), và vì lợi ích của người nghèo, Ngài muốn các định chế lề luật gìn giữ, bảo vệ những kẻ bần cùng, như các cô nhi, góa phụ, khách ngoại kiều cư ngụ trong xứ (x. 22,20-26; 23,9; Lv 19,33-34; Đnl 10,17-19; 27,19).
Trong thời gian hoạt động công khai rao giảng, trong bức tranh cuộc đời rong ruổi nay đây mai đó, Đức Giêsu, theo nghĩa là Người có thể trông nhờ vào một ngôi nhà nào đó mà Người lưu lại tạm thời (x. Mc 1,29.35) và hưởng nhờ sự hiếu khách từ phía các môn đệ và những người có lòng với Người, có lương thực để ăn nhà để ở (chỉ cần nghĩ tới Matta, Maria và Lazarô: x. Lc 10,38-42; Ga 12,1-2). Phúc âm thứ tư cho ta biết có một “quỹ chung” (Ga 12,6; 13,29) trong nhóm các môn đệ, có lẽ chăng đó là những gì có được do lao động đánh bắt cá. Sau cùng, Người được gọi và được người ta công nhận là một rabbi và là tiên tri, với uy tín và uy quyền đó Người còn được hay mời đến các nhà giàu sang khoản đãi ăn uống (x. Lc 5,29-32; 7,36-50; 19,1-10).
Người đã gặp gỡ Đức Kitô và muốn đi theo Người là kẻ giống như người kia đã gặp thấy viên ngọc quý hay kho tàng ẩn giấu (x. Mt 13,44-46) và có thể bán đi tất cả, bỏ mọi sự, để đạt cho được của ấy vì yêu mến điều tốt đẹp đó quý giá nhất trên tất cả, là: Nước Trời, Tin mừng, chính Đức Kitô. Gia đình, tài sản vật chất và thậm chí mạng sống mình (x. Mt 10,37-38; Lc 14,26-27) có thể trở thành vật cản và mâu thuẫn với việc ta triệt để đi theo Chúa. Bởi thế, khi người tín hữu cảm thấy mình được kêu gọi đi theo Chúa thì họ phải làm một chọn lựa dứt khoát và triệt để. Người môn đệ chọn Chúa trên hết mọi sự, và như thế họ mới có thể bước đi theo Người, với ý thức mình đã từ bỏ hết mọi thứ “bả vinh hoa phú quí” (Mc 4,19), “thần Tiền Của” (Mt 6,24; Lc 16,13), từ bỏ sự giàu sang của ma quỷ mà đức tin đòi hỏi.
Một yếu tố thứ hai cần nhấn mạnh trong đời sống của cộng đoàn Kitô hữu là sự quan ngại đối với của cải giàu sang. Tinh thần nghèo khó, vốn đòi hỏi phải tuyệt đối không bao giờ đặt tin tưởng vào của cải, dù là của ta hay không của ta. Những lời công kích của thánh Giacôbê, phản chiếu những lời các tiên tri thời cổ Israel tấn công những kẻ giàu có áp bức, bóc lột người nghèo (x. Gc 5,1-6), khiến ta phải suy nghĩ. Ở đây tố cáo của cải giàu sang đáng ghê tởm, chỗ khác ta đọc thấy: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì thế, người Kitô hữu được cảnh báo có thể trở thành người quản gia của Satan, tức là kẻ phục vụ cho các ích lợi của nó; không phải quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu bằng những lời này: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý” (Lc 4,6) hay sao? Cộng đoàn Kitô hữu đặt tất cả mọi sự vào mục đích xây dựng sự hiệp thông và chia sẻ, chống lại những cám dỗ trong đời sống hằng ngày chỉ biết tích lũy của cải vì tham lam. Sống đẹp, đơn sơ, thanh đạm, nghèo khó là lời chứng thuyết phục, luôn được bảo đảm và canh tân mỗi ngày bằng sự chia sẻ với người khác, với những người nghèo.
Page 9 of 19